Độc Cô Minh cưỡi Đạp Nguyệt Ô Truy băng qua sa mạc mênh mông, thảo nguyên bát ngát, tinh hà chảy siết, không ngừng truyền tống liên tục mới đến được Đông Hải ở tận cùng Di địa. Nơi đây chính là nơi gần với chân trời nhất, khiến người ta khi đứng từ xa có cảm giác bản thân nhỏ bé vô cùng.
Độc Cô Minh xuống ngựa, nhìn biển lớn thăm thẳm trước mặt, trên mặt biển sương mù dày đặc, từng làn sóng lớn dập dìu vỗ vào bờ nổi bọt trắng xóa, hắn hiểu rằng muốn đi qua không thể dựa vào sức người. Tuyết Thương phái nằm ở tận cùng Đông Hải, nếu dùng thuyền có lẽ phải mất ba tháng mới tới nơi. Đây là cách duy nhất bởi trên biển không thể thiết lập truyền tống trận, cổ thú dưới đáy biển cũng rất nhiều, càng ra xa sẽ càng nguy hiểm, phải đi đường vòng qua những lộ tuyến do người có kinh nghiệm vẽ ra mới né tránh được.
Trương Khiết Khiết ngẩng đầu hỏi:
- Sư phụ, bây giờ làm sao?
- Chờ, nghe nói rằng có rất nhiều chuyến thuyền từ Đông Hải sang đất liền và ngược lại. Mặc dù giá hơi cao nhưng sẽ an toàn.
Hắn vừa mới nói xong đã thấy từ trong làn sương mù trước mặt xuất hiện một chiếc thuyền độc mộc chậm rãi tiến đến.
Người lái thuyền là một nữ tử áo trắng, mái tóc búi cao, dung mạo khá tầm thường không lấy làm xinh đẹp nhưng từ cơ thể lại toát ra một loại khí chất khá đặc biệt. Nhìn nàng ta, Độc Cô Minh có cảm giác rất quen mắt nhưng nghĩ mãi mà chẳng nhớ ra từng gặp ở đâu.
- Khách quan muốn tới Đông Hải chăng?
Nữ tử áo trắng cất tiếng.
Cô bé Trương Khiết Khiết lạnh lợi đáp:
- Thưa có, tỷ cho muội hỏi phí đi thuyền mất bao nhiêu nguyên thạch!
- Một trăm nguyên thạch trung phẩm, không trả giá…
Nữ tử áo trắng đáp. Thấy Độc Cô Minh còn đang chần chờ, nàng ta nói tiếp:
- Chờ thuyền vượt Đông Hải rất khó, thường thì cứ cách ba tháng mới có một đợt. Khách quan nếu bỏ lỡ sẽ phải chờ thêm một đoạn thời gian nữa, giá tiền không chắc sẽ rẻ hơn…
- Đi thôi!
Độc Cô Minh gật đầu, dắt Đạp Nguyệt Ô Truy và Trương Khiết Khiết tiến lên chiếc thuyền.
Sóng biển dập dìu khiến thuyền hơi chao đảo, Độc Cô Minh thì không sao nhưng Trương Khiết Khiết lại suýt nữa té ngã, rất may có hắn bên cạnh giữ vai cô bé lại.
Nữ tử áo trắng dường như không quan tâm lắm tới ba kẻ vừa xuất hiện, ánh mắt chăm chú nhìn ra xa xăm để tìm đường vượt biển. Tay nàng cầm mái chèo đưa xuống mặt biển, động tác cực kỳ đều đặn và nhẹ nhàng, rõ ràng đã rất quen với việc này.
Chiếc thuyền độc mộc chẳng mấy chốc dần tiến vào làn sương mù mờ ảo, bắt đầu cuộc hành trình đi tới Đông Hải, tìm kiếm nhân vật huyền thoại kia.
Độc Cô Minh ngồi trên mạn thuyền không ngừng suy tư. Hắn cảm giác có gì không đúng lắm nhưng nghĩ mãi vẫn chẳng phát hiện được chỗ nào bất ổn.
Nữ tử áo trắng kia tu vi cao hơn hắn một chút, tầm Tiên Thai đại viên mãn, để có thể chèo thuyền vượt Đông Hải chắc chắn phải sở hữu nguyên lực hùng hậu và chiến lực không tồi mới có thể duy trì sức bền trên chặng đường dài thế này, đồng thời né tránh nguy hiểm đến từ những hung thú tiềm tàng dưới đáy biển.
Sương mù phủ kín che đi mọi thứ, bốn người cứ thế im lặng ở trên thuyền lướt đi.
Có lẽ vì quá buồn chán nên Trương Khiết Khiết mới lên tiếng:
- Sương mù càng lúc càng dày đặc thế này, bốn phương tám hướng giống nhau như vậy làm sao tỷ phân biệt được đường đến Đông Hải?
- Các ngươi lần đầu đến Đông Hải nên không biết, để tránh lạc đường thì những người chèo thuyền như ta sẽ cất giọng hát để dẫn đường cho thuyền đối phương. Khu vực sương mù có một đặc điểm là truyền âm rất tốt, chỉ cần dụng lực một chút thì âm thanh sẽ vang vọng bốn phương. Các vị có thể thử…
Trương Khiết Khiết nghe vậy liền để hai tay lên miệng rồi hét lớn:
- Ta là Trương Khiết Khiết!
Quả nhiên âm thanh trở nên phóng lớn cực đại, quanh quẩn bốn phía lúc lâu mới truyền ra xa sau đó nhỏ dần rồi biến mất.
Đúng lúc cô bé còn đang hồ hởi định thử tiếp thì chợt thấy nữ tử áo trắng cất giọng nỉ non, rõ ràng thuyền đã đi vào khu vực trung tâm của sương mù.
“Biển xanh thăm thẳm, sa mạc bao la, ngăn trở năm tháng hao mòn…
Nắm chắc trường kiếm, hồi ức đan xen, tháo gỡ xiềng xích vận mệnh…
Trời đất bao la, mượn một chén rượu, chống đỡ sự điên cuồng của hồng trần này…
Cho dù mai sau thay đổi khôn lường cũng không quay đầu…”
Nữ tử vẫn đều tay chèo, miệng khẽ ngân nga câu hát ai oán. Từng câu từng chữ vang vọng khắp thiên địa, thấm vào lòng người khiến cho những kẻ có mặt ở đây nảy sinh sự đồng cảm.
Độc Cô Minh trầm mặc, lời ca kia như gợi dậy rất nhiều hồi ức trong lòng hắn.
Lúc tiếng ngân nga của nữ tử áo trắng trôi xa về nơi chân trời rồi tắt hẳn, từ đầu bên kia cũng vang lên giọng hát tương tự như dẫn đường cho kẻ lạc lối, giúp họ đi đúng hướng, tránh xa lầm lạc u mê.
“Gió thổi mây bay cuồn cuộn, giữa dòng chảy thời gian hỏi đêm nay là thuộc về năm nào…
Lòng chỉ mong chấp niệm luân hồi vượt qua được tuế nguyệt vô tận…
Trong thoáng chốc trăm hoa đã rơi rụng bao lần…
Ràng buộc đời này lay động đến cả tơ lòng… Biết mai sau liệu có được gặp lại?
Lưu giữ một đóa bỉ ngạn tưởng nhớ duyên phận phù du, trên gương mặt này có nét nhớ nhung chưa dứt…”
Âm thanh quanh quẩn khắp trời đất, nhưng lần này không xa dần rồi biến mất mà đọng lại trong tâm trí người nghe, hóa thành nỗi ưu thương bi lụy.
Độc Cô Minh chợt siết chặt nắm tay, trong đầu bất giác hiện ra gương mặt Trần Mạn Dao đang mỉm cười nhìn mình, đồng thời cũng là Lưu Tích Quân đang lặng lẽ đứng từ xa nhìn trộm hắn, ánh mắt chân thành chúc phúc. Cả hai chính là chấp niệm lớn nhất trong lòng hắn, một người hắn yêu, một người yêu hắn. Nhưng hắn chẳng làm được gì cho họ, Mạn Dao mất tích sau sự kiện Tuyệt Vọng Ma Uyên, còn Lưu Tích Quân đang đứng trước cửa tử chưa thể cứu vãn.
Khóe mắt hắn hơi ướt, miệng khẽ thì thào:
- Lời ca thật hay, có lẽ ẩn trong nó là điển cố gì chăng?
Nữ tử áo trắng gật đầu:
- Đã là chuyện bi thương dĩ nhiên đều có điển cố. Bài ca đầu tiên kể về một gã tu sĩ một lòng cầu đạo, cả đời chuyên tâm dứt bỏ tình cảm, không màng mọi thứ. Ngày nọ tu vi của y chạm phải bình cảnh không thể tăng tiến chút nào, đành phải ra ngoài lịch luyện.
Y đi khắp vô số biển lớn, vượt qua vô số sa mạc, lại hòa mình vào cuộc sống của phàm nhân, nhưng dù y cố gắng bao nhiêu thì cũng không thể khiến lòng mình an tĩnh, tìm thấy đại đạo mà y hằng mong.
Cho đến một ngày y gặp được nàng, một thiếu nữ bán đèn hoa đăng bên hồ. Cả hai làm quen rồi dần nảy sinh ái tình với nhau. Theo ái tình sinh ra, tu vi của y cũng ngày một chững lại, đại đạo xa dần. Đúng lúc này thế giới mà y đang sinh sống xảy ra chiến sự. Y với tư cách là đệ nhất thiên tài trong tông môn được hiệu triệu trở về. Vì thương sinh bách tính, vì thái bình thịnh thế, y đành trở về tông môn, dùng vô tình chứng đạo, gác bỏ lại toàn bộ đoạn hồi ức kia. Tuế nguyệt như thoi đưa, phiến loạn được dẹp, khói lửa chiến tranh đã tắt, y cũng đã trở thành hào kiệt trấn áp một thời đại nhưng lại vĩnh viễn mất đi nữ nhân mình yêu thương nhất…
Giọng nữ tử rất truyền cảm khiến cho đôi mắt cô bé Trương Khiết Khiết đỏ hoe, không rõ là đã chảy bao nhiêu nước mắt khi nghe đến câu cuối.
- Vị tỷ tỷ bán đèn hoa đăng kia thật đáng thương, đã bị khi phụ tình cảm…
- Không hẳn…
Nữ tử lắc đầu:
- Gã tu sĩ kia sau cái chết của nàng thì đã hóa thành trầm mặc. Có điều sự trầm mặc này là vì nội tâm đã quá điên cuồng và cố chấp mới thể hiện ra như vậy. Y cho rằng bản thân có thể nghịch thiên cải mệnh, chỉ cần tu vi bản thân sánh ngang với thiên địa, thậm chí vượt qua cả thiên địa trở thành tồn tại cao nhất. Chính vì thế y không ngừng tu luyện, cho đến một ngày y nhìn thấy trên đầu mình xuất hiện một vòng xoáy luân hồi, đại biểu y đã có tư cách tiếp xúc với cấm kỵ…
Độc Cô Minh im lặng, chẳng hiểu sao trong đầu hắn lại xuất hiện cảnh tượng một nam tử áo trắng đứng bên dòng sông Tinh Hà chảy siết, đôi mắt nhìn lên trời với vẻ tang thương, kế đến y thở dài một hơi rồi bay thẳng vào vòng xoáy luân hồi kia, vĩnh viễn biến mất khỏi thế gian…
Trương Khiết Khiết gấp gáp hỏi:
- Sau đó thế nào? Y có thể cứu được vị tỷ tỷ kia khỏi luân hồi hay không?
Nữ tử lắc đầu:
- Ta cũng không rõ, chỉ nghe kể lại rằng y tự nguyện chìm vào luân hồi để tìm dấu vết thất lạc của thiếu nữ kia. Người có ba hồn bảy phách, y thành công hai lần thu về hai phân hồn, còn lần thứ ba dường như thất bại. Chuyện kể chỉ tới đây rồi dừng, không có phần phía sau…
- Vậy còn bài ca thứ hai?
Trương Khiết Khiết tỏ rõ sự hụt hẫng, lại hỏi.
Nữ tử đáp:
- Cũng là về mối tình kia, nhưng nói về cô gái nhiều hơn. Qua hai lần truy vết thành công, gã tu sĩ chợt phát hiện ra một sự thật đầy bi thương… Hóa ra hắn đâu cần tìm kiếm nàng.
Nàng vốn dĩ luôn tồn tại bên cạnh hắn.
Lúc hắn được vạn chúng tung hô, nàng đang luân hồi hóa thân thành một cánh chim sẻ chao lượn trên bầu trời, chia vui với thành công của hắn.
Lúc hắn buồn bã đứng trước mộ nàng rơi nước mắt, nàng lại luân hồi thành một cây cổ thụ dùng bóng râm của mình che mát cho hắn, không ngừng an ủi.
Lúc hắn cô độc đi qua một cây cầu, trong lòng trống trải, nàng lại luân hồi trở thành cây cầu kia, chịu đủ năm trăm năm gió thốc, năm trăm năm nắng đổ, năm trăm năm mưa sa để chờ đợi hắn quay lại lần nữa, dùng sự vững chãi của mình nhẹ nhàng nâng đỡ gót chân, khiến hắn cảm thấy cõi lòng bình yên.
Ngay cả lúc hắn nhảy vào luân hồi hòng cứu nàng ra, rốt cuộc vẫn là nàng lúc này đã hóa thành đóa hoa bỉ ngạn bên dòng sông Vong Xuyên dưới Nại Hà kiều, tiễn đưa bóng lưng người mình yêu. Sau đó tàn phai, từng cánh hoa rơi xuống, tan biến thành bụi bặm rồi cuốn lấy thân ảnh của hắn, vĩnh viễn không chia lìa…
Giọng nói của nữ tử đã ngừng, nhưng sự trầm mặc vẫn bao phủ khắp nơi. Trong làn sương mù dày đặc, đưa mắt nhìn tới không thể thấy nỗi đâu là bờ bên kia. Dường như ở xa thẳm có tiếng thở dài ai oán của ai đó, tiếc thương cho một mối tình đẹp.