Hậu hoa viên Triêu Lan cung.
Ta và Hoàng Hậu ngồi đối diện nhau. Sau khi nghe ta trình bày rõ ràng chuyện của Tạ Thu Dung, Hoàng Hậu thoáng ngạc nhiên, sau đó trầm ngâm một lúc rồi mới cất tiếng nói:
“Ban nãy quả thực lúc vào cung, Tạ tiểu thư đã bị ngự lâm quân chặn ở Hoàng Môn. Cũng may Xuân Hạnh đi làm chút việc vặt cho bản cung, vừa hay trở về đúng lúc, nhìn thấy thế mới ra mặt bảo đảm cho nàng ta. Nếu không e là với bộ dạng ấy, Tạ tiểu thư thật sự không thể vào được. Lúc Xuân Hạnh nói với bản cung, bản cung còn cho là nàng ta quá lời.”
Ta cũng thở dài:
“Chuyện này quả thực kì lạ.”
Hoàng Hậu nâng ly trà trước mặt lên, khẽ nhấp một ngụm rồi thong thả nói:
“Bản cung đã cho người âm thầm đến Tạ phủ điều tra rồi. Chúng ta tạm ngồi đây thưởng trà tán chuyện một chút, chắc sẽ mau chóng có tin tức thôi.”
“Vâng ạ.” Ta gật đầu, cũng nhấc ly trà lên uống. Thủy Điển là loại trà ưa thích của Hoàng Hậu. Vị trà thanh nhã, trước chát sau ngọt, mà hương thơm thì vương vấn rất lâu khiến người ta có cảm giác an tĩnh.
“Bản cung không ngờ muội lại quan tâm đến Tạ tiểu thư như vậy.” Hoàng Hậu đột ngột nói.
Ta thành thực đáp: “Tạ tiểu thư đối với muội rất tốt. Nhìn thấy nàng như vậy, muội thực lo lắng…”
Hoàng Hậu gật đầu không hỏi thêm nữa mà chuyển sang chuyện khác:
“Nguyệt nhi, muội cảm thấy Du Thường tại thế nào?”
Ta cũng biết Hoàng Hậu sẽ nói đến vấn đề này, bèn cười đáp:
“Là một nữ nhân lanh lợi, nhưng chẳng qua cũng chỉ có lanh lợi mà thôi.”
Hoàng Hậu cười cười nói:
“Thấy muội bảo nàng ta đưa Quách thị đi thỉnh tội, ta còn tưởng muội muốn cất nhắc nàng ta.”
“Muội nào có ý đó. Chỉ là tội của Quách Phương uyển quá nhiều, sợ nàng ta thỉnh sót nên muội mới nhờ Du Thường tại đi theo nhắc nhở.”
“Cũng phải…”
Du thị chỉ có chút khôn lanh vặt vãnh, chẳng phải hơn người. Ở hậu cung huơ tay vơ đại cũng được một đống người mưu trí hơn hẳn nàng ta. Nếu đi coi trọng người như vậy, chẳng hóa ra bản thân ta cũng hồ đồ rồi sao. Hoàng Hậu ắt hẳn cũng hiểu, chỉ là kiếm chút chuyện nói cho qua thời gian mà thôi. Để nàng vui lòng, ta cũng cứ thuận theo đẩy đưa câu chuyện giải sầu. Cười nói được một lát thì Tần Khương - thái giám thân cận của Hoàng Hậu đi điều tra Tạ phủ trở về. Người của Hoàng Hậu làm việc quả nhanh nhẹn.
Tần Khương tới nơi, hành lễ xong thấy còn có mặt ta, liền lộ vẻ ái ngại. Hoàng Hậu lúc này mới vẫy tay cho hắn đứng lên rồi nói:
“Có gì cứ nói, Hòa phi không phải người ngoài.”
Đọc tiếp tại ghientruyenchu.com nhé !
Tần Khương được lệnh bèn cung kính chắp tay, tỉ mỉ kể lại:
“Bẩm Hoàng hậu cùng Hòa phi nương nương. Ban đầu nô tài đến Tạ phủ, lấy danh nghĩa Hoàng Hậu nương nương cầu kiến. Tạ đại nhân thượng triều chưa trở về còn Tạ phu nhân tuy nói không có việc gì nhưng thái độ lại không mấy tự nhiên. Vậy nên nô tài lén gặp người của ta ở trong phủ. Kết quả nghe được không ít chuyện li kì…”
Tần Khương hơi ngập ngừng, chờ xem thái độ của Hoàng Hậu. Có lẽ việc hắn tự tiện gặp gỡ người của Hoàng Hậu là quá phận, sợ hãi bị trách phạt. Nhưng ngay cả phủ đệ của Tạ Ngự sử cũng có thể cài người vào, nàng ta quả là lợi hại.
“Nói tiếp đi.”
Hoàng Hậu vậy mà không quá bận tâm, chỉ khẽ gật đầu cho phép Tần Khương nói tiếp. Tần Khương trút được nỗi lo lắng, giọng điệu mạnh mẽ hẳn lên:
“Bẩm Hoàng Hậu cùng Hòa phi nương nương, chuyện này vốn có liên quan tới hôn sự của Tạ tiểu thư. Nghe nói nhiều ngày trước, Doãn Thị lang đã mang sính lễ đến hỏi cưới Tạ tiểu thư cho Doãn đại công tử. Tạ đại nhân nhận sính lễ rồi nhưng lúc đó Tạ tiểu thư còn ở trong cung nên không hay biết. Tạ tiểu thư trở về nhà, liền vì chuyện này mà bất hòa với Tạ đại nhân. Tạ tiểu thư kiên quyết không đồng ý gả, mà Tạ đại nhân cũng nhất định không trả sính lễ. Sau đó Tạ đại nhân sợ Tạ tiểu thư đào hôn cho nên mới đem giam nàng lại, không cho rời khỏi phòng dù chỉ một bước. Đó là lý do Tạ tiểu thư không hồi cung đúng ngày. Hôm nay là ngày kị ba năm thân mẫu của Tạ tiểu thư. Nhân lúc Tạ đại nhân vắng nhà, nàng mới quỳ gối dập đầu xin Tạ phu nhân cho đi viếng mộ thân mẫu, nếu không sẽ tự vẫn. Tạ phu nhân không biết xử trí thế nào, nhất thời mềm lòng đồng ý. Tạ tiểu thư sau khi ra ngoài bèn đổi y phục với nha hoàn thân tín, chạy về hoàng cung. Tạ phủ bây giờ hẳn là đang gà bay chó sủa.”
Tần Khương làm xong bổn phận được giao, liền quy củ lui ra ngoài.
Thì ra là vậy.
Trong lòng ta hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn yên lặng đợi Hoàng Hậu lên tiếng trước. Quả nhiên, không để ta chờ đợi quá lâu, Hoàng hậu đã cười lạnh:
“Tạ Ngự sử càng lúc càng hồ đồ rồi.”
Ta mới đến đây không lâu, đối với chuyện ngoài cung không biết nhiều, liền nhân cơ hội này mà hỏi:
“Tính về tuổi tác, Tạ tiểu thư cũng nên thành thân rồi. Vì sao lại một mực đào hôn như thế? Lẽ nào Doãn gia không tốt? Muội cảm thấy Thị lang tuy không phải chức vị lớn, nhưng cũng chẳng đến nỗi không môn đăng hộ đối.”
Hoàng Hậu nhếch môi, cười khẩy:
“Tạ Chính Minh luôn thích kéo bè kết đảng, lại vô cùng trọng thể diện lẽ nào đi chọn chỗ thấp bé mà gả con gái vào? Doãn Thị lang chức vị quả thực không quá cao nhưng ông ta có tình hữu hảo lâu năm với Triệu Tướng gia. Quyền thế so với những Thị lang bình thường cao hơn mấy phần.”
Năm xưa khi Hoàng Đế mới lên ngôi, cục diện rối ren vô cùng. Khi ấy Hoàng Đế hãy còn nhỏ tuổi nhưng hắn đương là Thái tử, lại là kẻ duy nhất đủ điều kiện kế vị nên đường lên ngôi cửu ngũ không nhiều sóng gió, mà trái lại, mũ phượng kia mới là thứ khuấy đảo hoàng thành. Hoàng Đế lên ngôi, Hậu vị không thể để trống. Vô số gia tộc quyền thế trong triều đều muốn đưa con gái lên làm mẫu nghi thiên hạ. Liễu Yến Yến, Triệu Lam Kiều, Lê Khiết, Tạ Thu Dung đều từng là những đối thủ xứng tầm của Hoàng Hậu bây giờ.
Kết cục của trận chiến “ngũ phụng tranh vương”, đại tiểu thư Hà thị - Hà Thục Chiêu là người chiến thắng. Về lý, nàng có thể đội lên mũ phượng bởi tuổi tác thích hợp nhất, những người kia khi ấy đều chỉ là mấy tiểu a đầu miệng còn hôi sữa, không thể cáng đáng nổi trách nhiệm nặng nề. Nhưng ẩn tình trong đó ai mà chẳng biết là do Thái Hậu ra tay để củng cố địa vị cho gia tộc của mình. Cục diện ngã ngũ, Lê Khiết, Liễu Yến Yến, Triệu Lam Kiều lần lượt tiến cung tiếp tục cuộc chiến, còn lại Tạ Thu Dung vì phải chịu tang thân mẫu nên đã bỏ lỡ cơ hội ba năm trước. Đến bây giờ, Lê Khiết hồng nhan bạc mệnh, Liễu Yến Yến và Triệu Lam Kiều vẫn ngày ngày tranh sủng, Tạ Thu Dung thì đã quá tuổi, không còn khả năng bước chân vào hậu cung để làm phi nữa. Có lẽ vì vậy mà Tạ đại nhân kiên quyết nhân dịp này gả quách nàng ấy đi, kết thân với Doãn thị và Triệu tướng gia, gỡ gạc lại phần vốn đã bỏ lỡ nhiều năm trước.
Ta ngẫm nghĩ trong chốc lát, vẫn cảm thấy vụ đào hôn của Tạ Thu Dung có điểm kì quái, liền hỏi:
“Cứ cho là Tạ tiểu thư không muốn gả đi, nhưng nàng ấy vốn là người đoan trang, muội thật không dám tin sẽ phản ứng lỗ mãng như vậy.”
Đối với một vị tiểu thư gia giáo, đào hôn quả thực chẳng phải chuyện nhỏ.
Hoàng Hậu nghe ta nói, bật cười khúc khích:
“Đó là do muội không biết vị Doãn đại công tử đó cho nên mới nói vậy.”
Thái độ lấp lửng của nàng càng làm người ta tò mò hơn, ta nhíu mày hỏi:
“Doãn đại công tử này rốt cuộc là thần thánh phương nào?”
Hoàng Hậu che miệng cười một tiếng, cuối cùng cũng nói ra:
“Hắn ta chính là Doãn Hi, đích tử của Doãn thị, từ nhỏ đã được nuông chiều nên sinh ra ngang ngược, coi trời bằng vung. Con người Doãn Hi không thiếu tật xấu, nhưng tật xấu lớn nhất chính là ham mê nữ sắc. Thiên hạ đồn rằng hắn mười ba tuổi đã biết đi thanh lâu, bản cung chẳng biết thật giả thế nào. Chỉ biết nay hắn vừa qua ba mươi tuổi, trong phủ đã có hai mươi thiếp thất, chưa kể đến nha hoàn thông phòng. Tạ Thu Dung từ lâu nổi tiếng là đệ nhất tài nữ, tài sắc vẹn toàn nên sớm đã lọt vào mắt xanh của Doãn Hi. Chỉ là ngày trước Tạ Ngự sử muốn đưa nàng vào cung nên không đếm xỉa đến hắn, sau đó Tạ Thu Dung lại phải chịu tang thân mẫu. Sự việc này cứ nghĩ như thế là xong. Không ngờ ba năm rồi, Doãn Hi vẫn không từ bỏ ý định, chỉ chờ đến ngày Tạ Thu Dung mãn tang liền đưa sính lễ đến nơi.”
Nghe qua mấy lời này, bản thân ta cũng phải kinh hãi:
“Không ngờ Doãn đại công tử lại tệ hại như thế! Nhưng mà… tỷ tỷ chẳng phải vừa nói Tạ đại nhân rất trọng thể diện hay sao? Sao có thể vừa ý một hiền tế bại hoại đến mức này?”
Hoàng Hậu khẽ lắc đầu, ánh mắt lộ vẻ khinh miệt:
“Doãn thị kết giao với Triệu Tướng gia lâu năm. Trước nay, những trò càn quấy của Doãn Hi luôn luôn được Triệu Tướng gia lấp liếm hộ. Sự thật về con người hắn, chỉ có người trong chốn quan trường mới biết được ít nhiều. Triệu Tướng gia một tay che trời, khiến cho trong mắt người ngoài Doãn Hi vẫn là bậc quân tử hiền lương. Thanh danh to lớn như thế, Tạ Chính Minh không thích sao được?”
Hoàng Hậu gọi thẳng tên tự của Tạ Ngự sử, chứng tỏ sự khinh thường tột đỉnh. Tuy ta chưa gặp ông ta bao giờ nhưng nghe đến đây trong lòng cũng dâng lên cảm giác ghét bỏ, bất giác cảm thán:
“Trên đời lại có người phụ thân nỡ vì chút lợi ích mà đẩy con gái mình vào miệng cọp như thế!”
Ta nhất thời tức giận, nói xong liền biết mình lỡ lời. Phụ hoàng của ta chẳng phải cũng là loại người đáng khinh đó sao? Hoàng Hậu chắc đã nhận ra sự ngượng ngùng của ta, nàng khẽ thở dài nhưng không đả động đến, chỉ nói:
“Trên đời này loại người nào cũng có… Tạ Thu Dung thực ra rất đáng thương.”
Giọng nói Hoàng Hậu dường như pha chút chua chát. Nghĩ kỹ lại, chẳng phải mỗi mình ta có loại phụ thân này.
Hậu cung cạm bẫy trùng trùng, một bước sa chân vạn kiếp bất phục. Có thể đành lòng đưa con gái mình vào chốn này, nói dễ nghe là lòng dạ cứng rắn, mà nói khó nghe thì chính là tàn nhẫn vô tình. Sinh ra là nữ nhân nhà quyền quý, thân phận càng cao sẽ càng hiểu rõ câu “thân bất do kỷ”. Cho dù là ta hay Hoàng Hậu, Liễu Yến Yến hay Triệu Lam Kiều cũng đều như nhau. Tất cả nữ nhân trong hậu cung này dẫu có đấu đá đến đầu rơi máu chảy, rốt cuộc cũng chỉ là những quân cờ trên bàn cờ chính trị mà thôi. Ta thân là công chúa hòa thân, xuất giá có bao nhiêu vinh quang hoa lệ, nhưng thực chất cũng chỉ là con tốt thí, mỗi ngày đều phải chăm chăm nghĩ cách giữ lấy mạng mình. Mấy người như Hoàng Hậu, Thục phi, Đức phi kia còn thảm hơn ta nhiều. Ta biết phận mình là “hiệp ước hòa bình” của Tùy Khâu và Bách Phượng, nhưng trước nay Tùy Khâu chưa từng làm cho ta điều gì, mà hoàng tộc họ Chu đối với ta cũng chẳng có điểm nào tốt đẹp, vì vậy, ta chỉ cần lo giữ mạng mình, chẳng cần nghĩ đến việc tận trung tận hiếu. Còn những nữ nhân kia lại bị vận mệnh gia tộc đè nặng trên vai… Nếu phải so sánh, bọn họ mới thực sự là kẻ đáng thương.
Cuộc trò chuyện của ta và Hoàng Hậu chìm vào yên lặng. Trong bầu không khí tự nhiên dâng lên một nỗi bi thương không thể nói thành lời. Nữ nhân đối với nhau, ở một phương diện nào đó sẽ có sự đồng cảm nhất định. Mà ta và Hoàng Hậu lại đứng cùng chiến tuyến, sự đồng cảm càng lớn hơn. Bất giác, ta như nhìn thấy nét mặt vốn ung dung, điềm tĩnh như nước của nàng phảng phất bi ai cùng uất hận. Trong giây phút ấy, ta tự hỏi sáu năm về trước, khi chiếc mão phượng cao quý kia được đặt lên mái tóc đen óng mềm mại của Hà tiểu tư, nàng ta rốt cuộc đang khóc hay đang cười?
Chỉ là…
Sâu kín bên trong mỗi con người đều có một góc khuất mà kẻ khác không thể tùy tiện bước vào. Ta cũng tự hiểu mối quan hệ của mình và Hoàng Hậu về bản chất chỉ là thứ liên kết đồng minh lỏng lẻo, hoàn toàn không có tư cách chạm đến bóng tối đó, nên cũng không cố gắng làm chi.
Nhìn thấy ly trà của Hoàng Hậu đã gần cạn, ta lặng lẽ nhấc bình trà châm thêm vào. Hoàng Hậu như tỉnh ra từ trong mộng, hai hàng mi dài rũ xuống thu lại ánh mắt u uẩn. Nàng mỉm cười yếu ớt, nhận lấy ly trà ta đưa đến. Nhìn nàng chậm rãi uống từng ngụm trà nhỏ, ta chợt hiểu ra lý do nàng đặc biệt thích loại trà này.
Trà Thủy Điển có tác dụng định tâm, xua tan tạp niệm.
Biết rằng không thể cứ kéo dài bầu không khí nặng nề này mãi, ta quyết định chuyển đề tài trở về Tạ Thu Dung. Hoàng Hậu đương nhiên hiểu được, liền bắt đầu nói những điều nàng biết, cốt yếu là để xua đi thứ cảm giác bi thương không nên có kia.
Người người đều nói Tạ Thu Dung là quý nữ của Tạ Ngự sử, nhưng thật ra nàng chỉ là con của một người thiếp. Thân phận mẫu tử nàng ngay từ đầu đã chẳng cao quý. Tuy vậy, Tạ Thu Dung lại có tư chất hơn người. Từ nhỏ, nàng đã thông minh lanh lợi, dung mạo lại đẹp đẽ. Tạ Ngự sử nhận thấy điều này từ sớm bèn quyết định biến nàng thành quân cờ chủ lực trong trận chiến tranh quyền của mình.
Ông đối đãi với nàng như trưởng nữ, lại cho phép nàng được học chữ cùng những người con trai khác của Tạ gia. Thời gian qua đi, Tạ Thu Dung học một biết mười, tài hoa đã vượt xa các huynh trưởng, dung mạo cũng ngày một xinh đẹp sắc sảo. Tạ Ngự sử biết mình không nhìn lầm người, liền không ngừng mời cao nhân khắp nơi đến bồi dưỡng cho nàng.
Mười ba tuổi, Tạ Thu Dung đã tinh thông cầm kỳ thi họa, văn tài xuất chúng, hoàng thành hiếm có người sánh kịp. Tạ phu nhân theo ý Tạ Ngự sử, thường xuyên đưa nàng đi dự những buổi yến tiệc của các nhà quyền quý. Tài năng và nhan sắc của nàng người người ngưỡng mộ. Tạ Thu Dung đã được Tạ Ngự sử đặc biệt nuôi dạy để trở thành mẫu nghi thiên hạ. Đáng tiếc, trận “ngũ phụng tranh vương” năm ấy, Tạ Thu Dung mới hơn mười bốn tuổi. Thái Hậu liền vin vào đó, nói rằng nàng không đủ chính chắn. Tạ Ngự sử bại nhưng không nản, trong vòng ba năm không ngừng tiếp tục rèn luyện Tạ Thu Dung, ôm hi vọng đem nàng tiến cung. Dù không thể ngồi vào hậu vị thì một chức Hoàng quý phi hay Quý phi cũng đủ cho Tạ gia mấy đời vinh quang. Thế nhưng, người tính không bằng trời tính, ngay đợt tuyển tú đầu tiên, thân mẫu của Tạ Thu Dung lại bệnh nặng qua đời, nàng ta vì thế mà để lỡ thời cơ vĩnh viễn. Chịu tang ba năm xong, nàng đã hơn hai mươi tuổi, không thể tham gia tuyển tú nữa. Tạ Ngự sử nghe đâu vì chuyện này mà tức giận đến ngã bệnh, liệt giường hơn một tháng trời.
Dẫu vậy, Tạ Ngự sử vẫn không hề bỏ cuộc. Đến ta cũng phải nghiêng mình bái phục sự ý chí leo cao bền bỉ của ông ta. Mục tiêu vốn nhắm vào hoàng tộc nay chuyển đến các công tử danh môn thế gia. Dù cho Tạ Thu Dung đã hơi lớn tuổi, nhưng dựa vào tài sắc cùng danh tiếng của nàng, tìm một nhà thông gia có thể giúp Tạ Ngự sử củng cố quyền thế không phải việc quá khó. Trong ba năm Tạ Thu Dung để tang thân mẫu, Tạ Ngự sử cùng phu nhân liên tục bồi dưỡng tài nghệ và nhan sắc cho nàng, phát huy thanh danh “Bách Phượng đệ nhất tài nữ” đến mức cao nhất, hòng kiếm tìm một hiền tế “hữu dụng”.
Doãn Hi chính là người đáp ứng đủ yêu cầu của Tạ Ngự sử.
Ngày trước tranh giành hậu vị, Tạ gia đã kết oán cùng Triệu Tướng gia. Nay vừa hay Doãn gia lại có mối giao tình lâu đời với Triệu Tướng gia. Kết thông gia với Doãn Thị lang, cũng coi như cùng Triệu Tướng gia thành người một nhà, không những có thể giải tỏa ân oán ngày trước, mà còn có thể nhân cơ hội này dựa dẫm vào Triệu Tướng gia, khuếch trương quyền lực. Lúc này, Triệu Tướng đã thâu tóm hơn một phần ba quyền lực trong triều, dựa vào Triệu Tướng gia tuyệt đối không sai. Mối hôn nhân này thực sự quá hời. Vì vậy, Tạ Ngự sử vô cùng cương quyết, dù có phải trói nghiến tân nương thảy vào kiệu hoa, ông cũng nhất định làm. Cũng vì lo sợ vạn nhất xảy ra bất trắc như hai lần trước, Tạ Ngự sử quyết định phải gả càng nhanh càng tốt. Sính lễ vừa đưa đến tháng trước, ngày thành hôn đã được định ở tháng sau.
Trớ trêu ở chỗ, Doãn Hi tới cầu thân như vậy nhưng không hề nói sẽ để Tạ Thu Dung làm chính thất. Tạ Thu Dung rất thông minh, nàng đương nhiên hiểu dựa vào thân phận thứ nữ con thiếp của mình, nếu gả cho một đích tôn nhà quyền quý như Doãn Hi, nàng hoàn toàn không có cơ hội trở thành chính thất của hắn. Thử nghĩ Doãn Hi trăng hoa bại hoại, thiếp thất của hắn đầy đàn, nếu không thể làm chính thê, gả vào đó có khác gì địa ngục? Con người tài hoa lại thẳng thắn, cương liệt như Tạ Thu Dung làm sao chịu được cảnh làm tiểu thiếp, ngày ngày cùng một đàn mấy chục nữ nhân tranh giành một tên trượng phu háo sắc? Chính vì lẽ đó, nàng sống chết cũng không chịu gả. Tạ Ngự sử ban đầu nói rằng chỉ tạm thời làm thiếp, tài năng và nhan sắc của Tạ Thu Dung trên đời hiếm có, Doãn Hi nhất định không thể tìm được người nào hơn nàng, sau cùng cũng sẽ lập nàng làm chính thê mà thôi. Nhưng dù ngọt nhạt thế nào cũng không lay chuyển được con gái, Tạ Ngự sử lền nổi giận, lại hiểu tính cách Tạ Thu Dung sẽ không dễ dàng khuất phục, bèn khóa chặt nàng trong phòng, chờ ngày trói lại thảy lên kiệu hoa. Tạ Thu Dung phải chờ đến tận ngày giỗ thân mẫu, khi Tạ Ngự sử vắng nhà mới có thể giở trò uy hiếp Tạ phu nhân để trốn ra ngoài. Nhà ngoại của nàng chỉ là thương gia nhỏ, nếu trốn về nhà ngoại, khi Tạ Ngự sử đến đòi người, sớm muộn cũng phải trả. Thế nên, Tạ Thu Dung bèn chạy thẳng vào hoàng cung. Dẫu sao dưới chân Thiên tử, Tạ Ngự sử cũng không thể làm gì quá đáng. Hoàng cung bây giờ là chỗ an toàn nhất đối với nàng.
Ta và Hoàng Hậu trò chuyện thoáng chốc đã quá trưa. Hoàng Hậu ngỏ lời giữ ta lại dùng thiện, nhưng nhìn vẻ mệt mỏi trên mặt nàng, ta đành từ chối. Dù sao lòng dạ hai người đều nặng nề, có ở lại nữa cũng chẳng vui vẻ nổi.
***
Về lại Cẩm Tước cung, ta đem chuyện của Tạ Thu Dung nói sơ qua cho Ngọc Nga và Ngọc Thủy, sau đó dặn dò cung nữ Ngọc Chân chăm sóc Tạ Thu Dung cẩn thận. Tạ Thu Dung phụng mệnh nhập cung chỉ dạy ta, nhưng chỉ được đi một mình. Nha hoàn cạnh người cũng không mang vào được. Trong số cung nữ còn lại, ta thấy Ngọc Chân này có phần trầm tĩnh, hiểu chuyện lại cẩn thận, cảm thấy nàng sẽ hợp với Tạ Thu Dung nên để nàng đến chỗ Tạ Thu Dung. Mấy tháng qua, hai người cũng coi như hòa hợp. Có Ngọc Chân ở cạnh nàng ấy, ta cũng yên tâm.
Thực tình, ta rất muốn nói chuyện với Tạ Thu Dung. Nhưng nghĩ lại thời gian qua nàng đã chịu nhiều kinh hoảng, sáng nay lại còn trải qua một cuộc đào hôn ngoạn mục, trong lòng hẳn là vẫn còn sợ hãi. Tốt nhất là để nàng bình tâm lại trước, ngày mai hoặc ngày mốt lại nói chuyện cũng không muộn. Dù sao Tạ Ngự sử cũng chưa xông vào đây ngay được.
Dự định là như thế, nhưng đến buổi tối lại xảy ra chuyện. Ngọc Chân không biết vì sao đột nhiên cầu kiến. Ta đã yên vị trên chiếc giường êm ái, vốn chẳng muốn ngồi dậy, nhưng Ngọc Chân lại cứ kiên quyết đòi gặp ta cho được. Ngọc Nga nghĩ Ngọc Chân là người hầu hạ Tạ Thu Dung, sợ rằng Tạ Thu Dung có việc gì quan trọng nên mới bẩm báo lên. Ta cũng nghĩ vậy. Dù hai mí mắt đã dính chặt với nhau nhưng vẫn gắng gượng khoác áo vào ra gặp Ngọc Chân.
Ngọc Chân vừa nhìn thấy bóng ta đi ra, đã vội quỳ xuống, sợ hãi nói:
“Nô tỳ xin chủ nhân đi qua chỗ Tạ tiểu thư xem sao. Nô tỳ lo Tạ tiểu thư…”
Ta vội hỏi: “Tạ tiểu thư làm sao?”
Ngọc Chân run bắn người, quỳ mọp mà đáp:
“Hôm nay sau khi về phòng, Tạ tiểu thư liền đóng chặt cửa không cho ai vào. Đến hai bữa cũng chỉ hé cửa phòng cho nô tỳ đẩy cơm vào thôi. Ban đầu, nô tỳ nghĩ tâm trạng nàng không vui nên không dám làm phiền… Nhưng ban nãy, khi nô tỳ đến chuẩn bị hầu hạ nàng nghỉ ngơi thì cửa phòng Tạ tiểu thư vẫn đóng kín. Nô tỳ… nô tỳ cảm thấy kì lạ nên đã lén nhìn vào khe cửa, liền thấy hai mâm cơm đưa vào đều còn nguyên dưới đất… Nô tỳ gọi cửa thế nào nàng cũng không trả lời… Nô tỳ sợ có chuyện không hay nên…”
“Rốt cuộc lại là chuyện gì đây?”