Liễu Duy Dương thấp giọng bảo: “Trên mình hai người đó có mùi tanh thối.”
Nhan Đàm lập tức phấn chấn hẳn lên: “Ta thấy bọn họ ánh mắt láo liên, lại ân cần thái quá, e rằng nội tình có điều cổ quái. Chặng đường tiếp theo hẳn sẽ thú vị rồi đây.”
“Cứ cho là có điều cổ quái thì cũng sẽ không đến mức ứng phó không xuể.” Đường Châu nhìn lại tay nải, “Lương khô không còn nhiều nữa, sau khi vào núi không biết nơi nào mới có nhà dân, nên tranh thủ lúc này mua thêm một ít mang theo bên người.”
Liễu Duy Dương lắc đầu, miệng đều đều cất giọng: “Bọn họ đã dám dẫn người vào núi, khẳng định là đã có tính toán cả. Tóm lại vẫn là nên đề cao cảnh giác.”
Nhan Đàm lạnh toát xương sống, lông tơ trên người dựng đứng cả lên: “Mùi tanh thối mà công tử vừa nói khi nãy, chắc không phải là…”
Liễu Duy Dương chẳng buồn đáp lại, chỉ đưa mắt sang nhìn nàng cái, nửa lời không lọt kẽ răng.
Đường Châu có chút lấy làm lạ, Nhan Đàm ngày thường lại có khi nào úp úp mở mở, lòng nghĩ một câu lại nói có nửa như vậy, bèn lên tiếng hỏi: “Mùi tanh thối đó thế nào?”
Nhan Đàm vẻ mặt phức tạp: “Ta chỉ là đoán bừa thôi, ngươi vẫn là không biết thì hơn, sợ là nghe rồi sẽ khiến ngươi mấy ngày liền cơm nuốt không trôi.”
Đường Châu thấy nàng không muốn nói thì cũng không miễn cưỡng nữa. Ba người bọn họ vào thôn mua thêm một ít màn thầu, lại kéo thêm ít nước giếng mang theo trên đường, khi quay trở lại cửa thôn thì đã thấy hai người bản địa nọ lưng vác dây thừng và rìu, tay cầm gậy dò đường đứng chờ sẵn.
Núi Chu Thúy sương mù dày đặc, tầng tầng lớp lớp tích tụ vào nhau, thậm chí còn không thể thấy rõ được sự vật ở cách mình mười bước chân. Nhan Đàm âm thầm quan sát hai người bản địa đang dùng gậy dò đường phía trước, bọn họ tướng mạo từa tựa như nhau, nước da ngăm đen, khi cười cũng chỉ dùng mỗi cơ mặt.
Bỗng người bản địa thấp hơn kia quay đầu lại, nhe hàm răng đen sì ra cười với nàng: “Cô nương phải theo sát một chút, trên núi này có mãng xà, chuyên môn thích ăn các tiểu cô nương thịt mềm da mịn đấy.”
Nhan Đàm lập tức bày ra gương mặt sợ hãi: “Trên núi hãy còn có mãng xà sao?”
“Con mãng xà này mình dày bằng bắp tay, dài như vầy nè.” Y đưa tay ra làm phép so sánh, “Lúc nó há to mồm, có thể nuốt chửng cả một người vào bụng.”
“Đủ rồi, đệ đừng nói nữa!” Người bản địa cao hơn kia tức khắc ngắt lời y, miệng cười cười bảo, “Đó cũng chỉ là lời đồn ở vùng này thôi, cô nương đừng sợ, mà dù cho có thật sự gặp phải mãng xà đi nữa thì hai người chúng ta cũng dư sức đốn chết nó.” Vừa nói y vừa vỗ vỗ lên chiếc rìu được quấn giữa cuộn dây thừng trên lưng.
Nhan Đàm nở một nụ cười yêu kiều, nhỏ nhẹ cất giọng: “Vậy thì ta an tâm rồi.”
Lại đi thêm một đoạn nữa giữa làn sương mù, nàng đưa mắt sang tứ phía dòm ngó vu vơ, bỗng phát hiện Liễu Duy Dương vốn đi sau mình đã mất tăm không thấy bóng dáng. Nàng biết dựa vào thân thủ của hắn thì dù một mình lên đường cũng không có gì đáng ngại, chỉ là nàng vẫn luôn cảm thấy, Liễu Duy Dương chọn đồng hành cùng bọn họ, hẳn là có mục đích riêng của hắn. Nói cho cùng thì lòng người khó đoán, ít nhất trước mắt vẫn là chưa thể xác định hắn rốt cuộc là bạn hay thù, hoặc giả là có mưu đồ gì khác.
Nàng còn đang nghĩ có nên đem việc này nói với Đường Châu hay không thì trong lúc vô ý chợt loáng thấy một bóng người vụt qua khóe mắt. Quay phắt đầu lại, nàng nhìn thấy Liễu Duy Dương thần thái điềm nhiên đang đi sau mình.
Nhan Đàm đưa tay dụi dụi mắt, trong lòng hoài nghi: Lẽ nào lúc nãy là nàng nhìn nhầm rồi ư? Theo lý mà nói thì sương giăng mù mịt thế này, nhất thời hoa mắt cũng không có gì là lạ. Nàng chốc chốc lại quay ra sau dòm cái, cứ vậy liên tục, đến Liễu Duy Dương cũng cảm nhận được, khó hiểu lên tiếng: “Có chuyện gì sao?”
“Lúc nãy công tử có nhìn thấy thứ gì dị thường không?” Nhan Đàm hỏi dò.
Liễu Duy Dương lắc lắc đầu, ngược lại người bản địa thấp lùn kia quay đầu lại bảo: “Nơi này sương dày, đường núi lại không dễ đi, khó mà tránh khỏi hoa mắt. Thế nhưng tiểu cô nương cũng thần hồn nát thần tính quá rồi, nên tập luyện cho lá gan cứng cáp một chút.”
Nhan Đàm thật muốn dùng biện pháp mạnh chỉnh đốn cái tên phàm nhân miệng mồm bép xép này một trận, nhưng xét thấy còn phải giữ hắn lại để dẫn đường nên đành nhẫn nhịn. Cái thời mà nàng đây còn bận tập luyện cho lá gan cứng cáp, tên phàm nhân lẻo mép này còn không biết đang ở đâu nữa kìa, ở đó dám nói nàng gan thỏ đế, rõ là lố bịch.
Bọn họ không biết đã đi hết bao lâu trên núi, trước mặt vẫn cứ là một mảng trắng lờ mờ. Đường Châu không nhịn được lên tiếng hỏi: “Còn phải đi bao lâu nữa?” Người bản địa cao hơn liền thanh đáp: “Sắp rồi sắp rồi, đợi lát nữa đến được nơi có con đường mòn, cứ men theo mà đi là sẽ vượt qua được ngọn núi này.” Y dùng chiếc giũa trong tay gõ gõ lên thân cây bên cạnh: “Dọc đường ta đều để ý phương hướng và làm dấu thế này, cứ cho là nhắm mắt cũng không thể đi lạc được đâu.” Y vừa định dùng dao rạch một đường lên vỏ cây thì chợt nghe tên lùn kia la lớn: “Chỗ, chỗ này ban nãy chúng ta mới vừa đi qua!”
Tên cao hơn lập tức quở mắng: “Đệ nói bậy cái gì vậy, đừng có ở đó mà tự mình dọa mình! Ngọn núi này chúng ta cũng đã đi qua không dưới mười bảy mười tám lần rồi, có lần nào là không phải rất nhanh đã ra khỏi đâu?”
“Nhưng đệ thấy kí hiệu trên vỏ cây này, không phải là nhát dao huynh vừa rạch lúc nãy sao?”
Tên kia tức thì mặt mày trắng bệch, miệng lẩm bẩm: “Sao lại như vậy được? Chuyện này trước nay chưa từng xảy ra, không lẽ, không lẽ… là quỷ xây tường (1)…”
Nhan Đàm cúi người nhìn dấu kí hiệu trên thân cây, lại quan sát cẩn thận một lượt số thảo mộc chung quanh, đúng là trước đó bọn họ đã đi qua đây. Nhưng nếu thực sự là quỷ xây tường thì không lý nào nàng một chút cảm giác cũng không có.
Đường Châu bình tĩnh cất lời: “Vậy thì thử đi lại một lần nữa, nếu như vẫn quay về chỗ cũ thì chúng ta sẽ nghĩ cách khác.”
Hai người bản địa kia lập tức xác định lại phương hướng, sau đó tiếp tục đi trước dẫn đường.
Nhan Đàm vừa đi vừa lặng lẽ quan sát xung quanh, lọt vào tầm mắt nàng là bước chân của Liễu Duy Dương, cứ đi được vài bước hắn lại dùng mũi chân di dời mấy hòn đá dưới chân. Mới đầu Nhan Đàm còn nghĩ là do hắn bản tính thận trọng, muốn để lại kí hiệu trên đường đi, nhưng qua hết một lúc lâu sau, nàng bắt đầu cảm thấy có chút không đúng. Kí hiệu thì phải dễ dàng nhận dạng, trong khi mấy hòn đá hắn sắp đặt lộn xộn không theo một quy luật nào, dường như chỉ đơn thuần vì muốn đá chúng ra chỗ khác mà thôi.
Cứ đi giữa làn sương trắng dày đặc như vậy hết khoảng hơn nửa canh giờ, chợt tên bản địa thấp lùn kia phấn khích quay đầu lại, tay chỉ về trước: “Đây chính là lối vào đường núi, xem ra mới nãy chỉ là định sai phương hướng nên mới đánh hết một vòng lớn.”
Nhan Đàm âm thầm liếc mắt sang Liễu Duy Dương, chỉ thấy hắn song mâu hướng thẳng, hai mắt như hồ nước phẳng lặng không một gợn sóng, đến cả chút sợ hãi hay lo lắng rất thường tình ở người phàm cũng không hề có.
Nàng chăm chú ngẫm nghĩ, cảm thấy trong chuyện này có một số chi tiết kì lạ: Hai người bản địa kia nói bọn họ đã đi qua ngọn núi này mười bảy mười tám lần là ít, không lý nào lại định hướng sai, trừ phi họ là có dụng ý muốn che mắt thiên hạ. Nhưng nhìn sắc mặt tái nhợt và thần thái hoang mang của họ ban nãy, nếu như toàn bộ chỉ là diễn kịch, thế thì quả là có phần lợi hại quá rồi. Hơn nữa nàng nghĩ, cách làm này cũng thực sự là dư thừa quá mức.
Giả thiết đầu tiên đã không thông suốt, vậy thì hãy còn một nguyên nhân khác. Mà nguyên nhân này, hẳn là nằm trên người Liễu Duy Dương. Nàng tận mắt nhìn thấy Liễu Duy Dương biến mất, mới giây trước giây sau hắn lại không biết từ đâu xuất hiện trở lại. Đây rốt cuộc có phải là do nàng nhất thời hoa mắt hay không? Nếu như không phải, vậy thì hắn rốt cuộc đã rời khỏi trong bao lâu, đi đâu làm gì? Chưa hết, Liễu Duy Dương cố ý mà như vô tình di dời mấy hòn đá trên đường đi, lại là vì nguyên do gì?
Nàng đột nhiên nhớ lại một buổi đêm rất lâu về trước ở Da Lan sơn cảnh, tối đó tiết trời oi bức khiến nàng không sao ngủ được, bèn ra bên hồ định hóng chút gió, kết quả bắt gặp Dư Mặc cũng chưa ngủ, đang đứng dưới trăng, hai tay chắp sau lưng. Nhan Đàm bước đến gần thì nhìn thấy trên mặt đất là những hòn đá nhỏ được rải la liệt như các vì sao trên trời, vị trí xếp đặt của mỗi viên đá trông vào đều có vẻ tầm thường nhưng dường như lại ẩn chứa huyền cơ gì đó bên trong. Dư Mặc quay đầu nhìn nàng, đoạn lại cúi đầu nhìn xuống mặt đất. Nhan Đàm rất lấy làm lạ, vừa định tiến đến gần hơn để nhìn cho rõ thì đã bị hắn một phát tóm lấy: “Cách sắp xếp của mấy hòn đá này là chiếu theo Phục Hi Bát quái (2), chỉ có vào chứ không có ra.”
Nhan Đàm bấy giờ không tin, kết quả vừa bước vào thì cảnh tượng trước mắt đột ngột biến đổi, xung quanh sát khí đằng đằng, có đi cách nào cũng chỉ lẩn quẩn mãi ở chỗ cũ, may là cuối cùng Dư Mặc đã nắm lấy nàng lôi trở ra ngoài. Tròn trịa nửa năm sau đó, mỗi khi nhìn thấy Dư Mặc nàng đều muôn phần cẩn trọng, chỉ lo sợ có chỗ nào chọc giận phải vị sơn chủ này, bản thân sẽ bị đem ném vào mê cung đá ngày trước.
Nếu như bọn họ khi nãy quanh quẩn hết một vòng tròn là do đã lạc vào Phục Hi Bát quái trận, vậy thì kẻ bố trận kia là ai? Liễu Duy Dương đã phát giác được có kẻ bày bố trận hình muốn giam chân họ, lại vì cớ gì không thốt nửa lời? Ban đầu nàng vốn định trực tiếp hỏi thẳng hắn, nhưng rồi chợt nghĩ kĩ lại, hắn đã chọn không nói ra hẳn là có lý do của riêng hắn. Đặt giả thiết Liễu Duy Dương có âm mưu gì khác trong đầu, nàng lên tiếng hỏi như vậy ngược lại sẽ thành bứt mây động rừng; còn nếu như hắn quả thực là xuất phát từ lòng tốt, thì câu hỏi này của nàng rất có khả năng sẽ làm hỏng việc.
Nhan Đàm ngẩng đầu nhìn về phía trước, trôi dạt giữa làn hơi sương là những sợi mưa mảnh dẻ đang bay ngược chiều tạt phớt lên má, đúng lúc đó loáng thoáng có một bóng người từ trong màn sương nhịp nhàng cất bước tiến ra. Người đó một tay nhấc cao gấu áo, chân đi guốc mộc, diện mạo lờ mờ, mỗi bước chân đều tựa như đang đạp trên mây, thân người nhẹ lướt, cả người toát ra khí chất thanh thoát khó tả nên lời.
Chú thích:
(1) quỷ xây tường: quan niệm mê tín rằng có bức tường vô hình được xây bởi quỷ chắn đường khiến con người ta quanh quẩn mãi không thoát được; về bản chất là khuynh hướng đi thành vòng tròn của chúng ta khi không có mốc định vị mục tiêu và đang ở trong tình trạng mất phương hướng.
(2) Phục Hi Bát quái: Phục Hi là vị hoàng đế đầu tiên trong truyền thuyết Trung Hoa, được xưng tụng là thủy tổ của văn minh nhân loại, là anh trai và đồng thời cũng là chồng của Nữ Oa. Tương truyền Phục Hi là người phát minh ra chữ viết, cách đánh cá và săn bắt. Phục Hi Bát quái, còn gọi Tiên thiên Bát quái, là bản sơ đồ được cho là sáng tạo của Phục Hi dùng để mô tả cấu thành và vận động của trời đất.