Quyển 2 – Chương 1: Dù chẳng tương tư cũng khó quên[1]
Sáu mươi năm thư qua tin lại, hắn chỉ thoáng trông đã nhận ra nét chữ của A Hành, nhìn thấy nét chữ quen thuộc như máu thịt, lòng hắn chợt quặn lên như dao cắt, đau đến nghẹt thở, nét chữ vẫn đây mà người nay đâu?
[1] Trích trong bài tử Giang thành tử – Ghi lại giấc mộng đêm hai mươi tháng Giêng năm Ất Mão của Tô Đông Pha (1036-1101). (ND)
Thế sự tựa bể dâu biến đổi vô thường, cả quãng thời gian dài đằng đẵng chẳng qua cũng như là bóng câu ngang cửa sổ.
Thiếu niên áo bào ngựa quý đã nằm dưới ba thước đất, thanh nữ dung mạo như hoa chỉ còn xương trắng cốt khô, biết bao bi hoan ly hợp ân oán tình thù đều trở thành câu chuyện phiếm cho đám người lê la đầu đường xó chợ, dẫu là truyền kỳ hào hùng mỹ lệ nhất cũng phai nhạt dần theo năm tháng rồi tan đi trong gió. Chỉ còn những đóa hoa dại nơi sườn núi ấy tự nở tự tàn, tự khoe sắc tự tỏa hương, tháng lại tháng, năm lại năm vẫn vẹn nguyên vẻ rỡ ràng ngày cũ.
Viêm Đế đời thứ tám Du Võng đã đăng cơ được hai trăm lẻ ba năm, người trên đại hoang cũng lãng quên Viêm Đế đời thứ bảy từ lâu, truyền thuyết về Thần Nông Thị nếm thử hàng trăm loại cỏ cây, sau cùng độc phát thân vong chỉ còn là câu chuyện nửa hư nửa thực.
Hiên Viên thành của Hiên Viên quốc nằm ở phía Đông Nam Hiên Viên, xung quanh được núi cao bao bọc, có lịch sử hơn ngàn năm nay, tuy không đồ sộ nhưng quy hoạch rất tề chỉnh, đẹp đẽ, lại là một tòa sơn thành, dễ thủ khó công.
Trong quán rượu ở Hiên Viên thành, một lão già tuổi chừng sáu mươi, nét mặt khắc khổ, lưng đeo cây tam huyền cầm đi khắp các bàn, tới bàn nào cũng cười cầu tài hỏi: “Khách quan muốn nghe một khúc nhạc không?”
Khách khứa trong quán vừa ngẩng đầu nhìn thấy lão đã bực bội xua tay lia lịa.
Một nam tử vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm, mình vận hồng bào, dáng dấp cao lớn, đường nét rắn rỏi đang ngồi tại chiếc bàn kê sát bên song, nhìn chỉ ngoài đôi mươi nhưng gương mặt lại tái mét như có bệnh, hai bên tóc mai lốm đốm bạc, đượm vẻ phong trần.
“Khách quan có thích nghe tấu nhạc hay kể chuyện không?”
Nam tử thẫn thờ trông ra ngoài song cửa, chẳng buồn ngoảnh lại, chỉ thuận tay quăng cho lão già một xâu tiền, xua tay đuổi lão đi.
Tay lái buôn mập mạp thấy vậy liền kêu lên: “Này lão già, nhận tiền rồi thì mau kể chuyện giải sầu cho chúng ta đi.”
“Chẳng hay khách quan muốn nghe chuyện gì?”
“Tùy lão, chuyện gì cũng được, miễn là hay.”
Lão già ngồi xuống khẽ gảy cây đàn tam huyền tính tang mấy tiếng rồi hắng giọng kể: “Vậy lão xin kể chuyện tiệc Bàn Đào hầu khách quan. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia cứ cách ba mươi năm Vương Mẫu trên Ngọc sơn lại bày tiệc Bàn Đào một lần, khách khứa tới dự được mời dùng đào tiên, nếm ngọc tủy, trước lúc ra về còn được tặng báu vật, quả là sự kiện trọng đại trong thiên hạ. Khách mời đều là những đại anh hùng trong Thần tộc, Yêu tộc và Nhân tộc. Ngọc sơn cao chót vót hơn vạn trượng, người thường vốn không thể leo lên, những kẻ phàm nhân như chúng ta chỉ có thể nghe kể lại mà thôi.”
Khách khứa trong quán thảy đều đặt đũa xuống, dồn mắt vào lão già, tay lái buôn mập ú được thể lên giọng kể cả: “Đúng thế đấy, ông cố ta cũng từng kể lại. Thuở ông cố ta còn nhỏ từng gặp người trong Thần tộc, chính vị bằng hữu Thần tộc đó kể với ông cố. Tiếc rằng về sau Vương Mẫu chẳng bày tiệc Bàn Đào nữa, bằng không biết đâu ông cố lại nhờ vả được vị bằng hữu kia đánh cắp cho mình một trái đào tiên, cũng không tới nỗi qua đời sớm như vậy.” Dường như thấy mình pha trò rất thú vị, tay lái buôn phá lên cười ha hả.
Đám khách khứa lao xao hỏi: “Về sau sao Vương Mẫu lại không bày tiệc Bàn Đào nữa?”
Lão già vuốt vuốt chòm râu dê đáp: “Hơn hai trăm năm trước, Thần tộc xảy ra một sự kiện long trời lở đất, Viêm Đế đời thứ bảy của Thần Nông tộc qua đời, Viêm Đế đời thứ tám là Du Võng được sự phò tá của Đốc Quốc Đại tướng quân Xi Vưu lên ngôi kế vị. Nghe nói khi tin Viêm Đế qua đời truyền tới Ngọc sơn, đến trời xanh cũng phải tiếc thương Viêm Đế, Ngọc sơn vốn quanh năm đều ấm áp như mùa xuân, vậy mà lần này lại đổ tuyết, cả núi trắng xóa một màu, hoa đào ngàn năm không tàn úa bấy giờ nhất loạt héo khô rơi rụng, không còn hoa đào đương nhiên sẽ chẳng có trái đào, càng không có tiệc Bàn Đào.”
Khách khứa trong quán thảy đều thở than tiếc nuối: “Đến Ngọc sơn cũng tiếc thương mà đổ tuyết, xem ra Viêm Đế năm xưa quả nhiên là người tốt.”
Chỉ mình tay lái buôn phản bác: “Tốt cái gì? Chính ông ta hại mọi người không còn đào tiên mà ăn, cũng chẳng biết bao giờ rừng đào trên Ngọc sơn mới ra trái lần nữa. Lão già kia, kể chuyện nữa đi.”
Lão già chẳng buồn đôi co với hắn, chỉ gảy gảy dây đàn, nghĩ ngợi một hồi rồi chậm rãi kể: “Vậy lão xin thuật lại một chuyện bí mật giữa Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc vậy. Hơn hai trăm năm trước Thần Nông và Hiên Viên khai chiến, tranh đấu liên miên mãi đến nay, bên nào cũng có thương vong, Tam vương tử của Hiên Viên chết trận, Chúc Dung của Thần Nông trọng thương, đến giờ vẫn phải bế quan chữa trị.”
Gã lái buôn sốt ruột ngắt lời: “Chuyện này ai mà chẳng biết, có gì bí mật đâu?”
Lão già thong thả đáp: “Nhưng theo lão được biết, Chúc Dung bị thương là do một nguyên nhân khác.”
“Lão nói xem nào! Đừng có câu giờ! Rốt cuộc là kẻ nào đả thương Chúc Dung?” Đám khách khứa nghe đến mê mải, hối hả giục.
Lão già cười khà đáp: “Thật ra Chúc Dung không phải bị người của Hiên Viên đả thương, mà chính là bị Hậu Thổ đánh trọng thương.”
“Gì cơ?”
Thấy mọi người kinh ngạc xôn xao, lão già đắc ý, lại khoan thai gảy mấy tiếng tinh tang, “Nguyên nhân cụ thể thì lão đây không rõ, chỉ biết hai trăm năm trước, Hậu Thổ một thân một mình xông vào doanh trại của Chúc Dung đánh cho y trọng thương, thậm chí linh thể suýt nữa bị tiêu tan, tĩnh dưỡng suốt hai trăm năm chưa khỏi.”
“Vậy mà Viêm Đế cũng để yên sao? Chắc người nhà của Chúc Dung phải thù Hậu Thổ đến ghi xương khắc cốt, vật nài Viêm Đế trừng trị Hậu Thổ ấy nhỉ?”
“Người nhà của Chúc Dung đáng lẽ nên cảm tạ Hậu Thổ mới phải.”
“Này lão kia, lão già quá lú lẫn rồi à? Đánh người ta gần chết còn đòi cảm tạ cái gì?”
Lão già cười hăng hắc, “Nếu Chúc Dung không bị Hậu Thổ đánh trọng thương, rồi thừa dịp đó trốn vào cổ trận trên Thần Nông sơn tĩnh dưỡng thì e rằng đã bị Xi Vưu giết chết, hoặc bị Xương Ý và Xương Phó suất lĩnh tinh binh Nhược Thủy ám sát từ lâu. Lão nghe nói sau khi Chúc Dung trọng thương được đưa vào bí trận, Xi Vưu vẫn không chịu buông tay, y điên cuồng tấn công cổ trận, toan xông vào lấy mạng Chúc Dung, Viêm Đế phái mấy trăm thần tướng đến cũng chẳng ngăn nổi. Về sau Viêm Đế phải năn nỉ Xi Vưu đừng phá hủy cổ trận kẻo làm tổn hại tới lăng mộ các đời Viêm Đế, y mới niệm tình thầy trò với Viêm Đế đời trước mà ngừng tay. Có người lại kể Xương Ý và Xương Phó dẫn theo một đội tinh binh Nhược Thủy nửa đêm tập kích Thần Nông, đến chẳng thấy hình đi không thấy bóng, chỉ trong một đêm đã giết chết mười tám thần tướng của Thần Nông, khiến cả Thần Nông hoang mang rối loạn, tướng sĩ Thần tộc chẳng ai dám chợp mắt, chỉ sợ nhắm mắt ngủ rồi sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.”
Khách khứa trong quán cười rộ lên, nhao nhao phản bác: “ Lão già này tham gạt gẫm chút tiền thưởng, bắt đầu đặt điều rồi, Tứ vương tử của Hiên Viên chúng ta nổi danh hòa nhã, cả đại hoang ai mà không biết.”
Tay lái buôn chợt buột miệng: “Nghe ông cố ta kể, năm xưa trong Thần tộc ngấm ngầm đồn đại rằng Hiên Viên vương cơ bị người trong Thần Nông tộc hại chết.”
Đám khách khứa khinh khỉnh vặn lại: “Vậy Đại vương tử phi của Cao Tân bây giờ là ai? Người ta vẫn còn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn kìa.”
Tay lái buôn bị căn vặn chỉ biết ngượng ngập cười: “Thế nên mới nói là đồn đại!”
Một người khách Cao Tân có chút kiến thức lại hỏi: “Tạm không bàn tới việc Xương Ý hành thích Chúc Dung có thật hay không, chỉ xét chuyện Xi Vưu thôi nhé. Tuy Xi Vưu hung tàn bạo ngược nhưng không phải kẻ điên, vì sao y muốn lấy mạng Chúc Dung? Tại sao ngay đến Viêm Đế cũng chẳng ngăn nổi?”
Cả quán rượu đột nhiên lặng phắc như chết, từ đầu đến giờ khách khứa ai nấy đều cố không đề cập tới Xi Vưu, gắng lờ đi cái tên đồng nghĩa với tử vong này, nhưng trong lòng lại lấn cấn một nỗi tò mò rờn rợn.
Một gã thiếu niên Cao Tân vừa theo cha lên thuyền phụ việc, nghé con chưa biết sợ hổ liền nằn nì: “Ông ơi, ông kể chuyện về Xi Vưu cho mọi người nghe đi!”
Lão già gật gật đầu với thiếu niên, gảy lên mấy tiếng đàn tinh tang vui tai rồi kể tiếp: “Các vị có nghe nói tới Cửu Lê tộc của Thần Nông bao giờ chưa?”
Thiếu niên le te đáp: “Cháu biết rồi! Đó là thị tộc sản sinh ra anh hùng, rất nhiều mãnh tướng Thần Nông là người Cửu Lê tộc, ngay cả Xi Vưu cũng vậy!” Giọng điệu đầy vẻ kính trọng xen lẫn sợ sệt.
Lão già lại gảy dăm tiếng đàn, “Hơn sáu trăm năm trước, Cửu Lê còn bị gọi là Cửu Di, dân chúng Cửu Lê bị xem như tiện dân, đàn ông phải làm tôi tớ, phụ nữ phải làm thị tỳ, không có cả tư cách hầu hạ người trong Thần tộc mà chỉ có thể làm nô lệ cho Nhân tộc.”
Khách khứa trong quán đều trợn tròn mắt nhìn lão già đầy nghi hoặc, Cửu Lê tộc, nơi sản sinh ra lớp lớp anh hùng mà là tiện dân ư?
Lão già nheo mắt hồi tưởng lại: “Mãi tới khi Xi Vưu xuất hiện mới thay đổi được tình cảnh đó, nghe nói Xi Vưu đấu với Thần tộc suốt trăm năm, buộc Thần tộc phải xóa bỏ cái tên miệt thị Cửu Di, Viêm Đế đời trước vô cùng nhân hậu, chẳng những không trách tội Xi Vưu, ngược lại còn nhận Xi Vưu làm đồ đệ, đến khi đương kim Viêm Đế lên ngôi, Xi Vưu lại được phong làm Đốc Quốc Đại tướng quân, nhưng khắp trên dưới Thần Nông không ai chịu phục y cả, ai nấy đều cười chê y, chửi rủa sau lưng y, thậm chí còn nói y sống không quá ba trăm năm nữa. Nhưng rồi suốt hai trăm năm, bọn họ dần dà trở nên khiếp sợ Xi Vưu, ở trước mặt Xi Vưu còn chẳng dám thở mạnh, chỉ e hễ sơ sảy sẽ chuốc lấy cái chết…”
Lão già ngưng bặt, vẻ sợ sệt ánh lên trong mắt, chỉ chăm chú gảy đàn, tấu lên một khúc réo rắt bi thương. Lạ thay, đám khách khứa cũng chẳng giục giã như mọi bận, ai nấy đều trầm lặng làm thinh. Mấy kẻ thuộc Thần Nông tộc càng tái mét mặt, nét kinh hoàng hằn lên ánh mắt.
Hồi lâu mới lại thấy lão già cất giọng khàn đặc thê lương: “Đám quý tộc Thần Nông vẫn luôn bất hòa với Xi Vưu, đôi bên tranh đấu kịch liệt, Xi Vưu dùng thủ đoạn tàn khốc tiêu diệt sạch những kẻ đối chọi mình, cải cách toàn bộ triều chính, khiến tám mươi bảy hộ của Thần Nông quốc phải diệt môn, Thần tộc, Nhân tộc, Yêu tộc đều không ngoại lệ, những kẻ bị xử cực hình mà chết lên tới năm ngàn ba trăm chín mươi sáu người! Nghe nói Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông vốn đứng về phía Xi Vưu, lúc Xi Vưu còn chưa đủ lông đủ cánh, Đại vương cơ từng chở che bênh vực cho y suốt một thời gian dài, nhưng dù sao Đại vương cơ vẫn là quý tộc, không chấp nhận nổi thủ đoạn tàn bạo của Xi Vưu, bèn lập mưu liên kết với Hậu Thổ để kiềm chế y. Sự việc bị Xi Vưu phát hiện, y chẳng chút niệm tình, một lèo giết sạch tâm phúc của Đại vương cơ, ép Đại vương cơ phải thề độc trước mọi người trên đỉnh Tử Kim, từ nay về sau không can dự triều chính nữa, nếu trái lời thề sẽ chết không toàn thây.”
Lão già thở dài cảm thán: “Xi Vưu quả là kẻ lãnh khốc vô tình, bị Thần Nông chư hầu coi như ác ma, nhưng trong dân gian, tiếng tăm của y không quá tệ, bởi xưa nay y vẫn lấy lễ đối đãi với bọn giặc cỏ dân đen, đám thanh niên trai tráng chẳng những không sợ y, ngược lại còn coi y như đại anh hùng, hy vọng một ngày có thể tự mình tạo dựng sự nghiệp vang danh đại hoang như các tướng quân dưới trướng Xi Vưu vậy.”
Gã thanh niên Cao Tân gật đầu lia lịa, hào hứng nói: “Nếu Cao Tân có được một người như Xi Vưu thì hay quá, cháu cũng khỏi phải theo cha lên thuyền làm thuê, biết đâu còn có thể lên triều kiếm một chức quan, dẫn quân ra trận nữa kìa.”
Nghe con trai nói vậy, phụ thân gã đằng hắng mấy tiếng, hạ giọng mắng mỏ: “Con nói nhảm gì thế? Thân phận chúng ta… đừng có si tâm vọng tưởng!”
Thiếu niên bị mắng tiu nghỉu mặt mày nhưng dù sao vẫn là thiếu niên, chỉ lát sau hắn đã lấy lại tinh thần, cao hứng kể: “Có lần cả đám bạn bọn cháu tranh cãi với nhau xem Xi Vưu, Thiếu Hạo, Thanh Dương ai lợi hại hơn, suýt nữa còn động tay chân, bà chủ quán rượu bèn trêu: ‘Chỉ cần gói gọn ba câu về ba vị anh hùng của đại hoang là đủ. Thiếu niên đều hy vọng được trở thành Xi Vưu, thiếu nữ đều mong được gả cho Thiên Hạo, bậc làm cha mẹ đều muốn có đứa con trai như Thanh Dương’.”
Khách khứa trong quán càng nghĩ càng thấy chuẩn xác. Thiếu niên nào chẳng ngông cuồng ngạo mạn, mong một ngày được phong hầu bái tướng, thúc ngựa rong ruổi khắp núi sông, thả sức tung hoành như Xi Vưu? Thiếu nữ nào chẳng rộn rã lòng xuân, mong lấy được người chồng anh tuấn hào hoa, nổi danh thiên hạ, nghĩa nặng tình sâu như Thiếu Hạo? Cha mẹ nào lại chẳng mong con cái được giỏi giang, tiền đồ rộng mở, cung kính hiếu thuận như Thanh Dương?
Lão già vuốt chòm râu dê mỉm cười: “Bất kể người của Thần Nông khen hay chê Xi Vưu, hiện giờ y cũng nắm giữ một nửa quân đội Thần Nông, chỉ cần ho một tiếng thì cả Thần Nông phải run sợ, đúng là Đốc Quốc Đại tướng quân oai phong lừng lẫy.”
Chủ quán cũng lắc đầu thở dài: “Quân đội của Xi Vưu quả là ác mộng của Hiên Viên chúng ta.”
Bầu không khí trong quán vừa chùng xuống đã lại căng lên như dâu đàn, ngay gã lái luôn cũng phải thầm thở dài.
Chỉ mình thiếu niên ngơ ngác không hiểu, láu táu hỏi: “Sao lại thế?”
Tiếng đàn của lão già lại vang lên dồn dập mà réo rắt, tựa mây đen vần vũ, thành trì thất thủ, khiến lòng người nơm nớp không yên. Lẫn trong tiếng đàn là giọng nói trầm trầm nặng nề của lão: “Xi Vưu chỉ đích thân cầm quân đánh với Hiên Viên một trận duy nhất. Tám mươi hai năm trước trong trận Đại Thì sơn, Hiên Viên tộc giết chết Tĩnh tướng quân dưới trướng Xi Vưu, Xi Vưu liền đem quân tấn công Đại Thì sơn, tuyên bố nếu không đầu hàng sẽ đồ sát toàn thành. Nhưng binh lính Hiên Viên kiên cường bất khuất, anh dũng thiện chiến nổi tiếng đại hoang, đương nhiên không chịu đầu hàng mà quyết tử chiến cùng Xi Vưu. Sau khi phá được thành, Xi Vưu liền hạ lệnh đồ sát toàn thành.”
Lão già tay run bắn, tiếng đàn chợt ngưng bặt, khách khứa ngồi đây đa phần là người Hiên Viên, từng nghe thuật lại trận chiến đó, ai nấy đều cúi đầu trầm mặc.
Đột nhiên lão già lại cất tiếng phá tan bầu không khí ắng lặng: “Một trận chiến! Chỉ một trận chiến thôi! Mười hai vạn người bị giết! Hơn chín vạn trong số đó là dân thường! Từ đó cái tên Xi Vưu trở thành cơn ác mộng của dân chúng Hiên Viên!”
Khách khứa trong quán thảy đều làm thinh, chỉ mình gã thiếu niên Cao Tân vẫn lẵng nhẵng hỏi về việc Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung: “Ông lão, có phải vì Xi Vưu bênh vực cho những người như chúng ta, còn Chúc Dung lại đứng về phía quý tộc quan lại nên Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung không?”
Lão già ngẩn người, chợt nghe thiếu niên gọi: “Ông lão ơi?”
“Ừm!” Lão già định thần lại, vừa nghĩ ngợi vửa kể: “Có lẽ căn nguyên là bởi Chúc Dung và Xi Vưu đại diện cho lợi ích của hai loại người khác nhau, đôi bên thế như nước lửa, không thể dung hòa, còn bí mật như người ta đồn đại chỉ là ngòi nổ mà thôi.”
“Bí mật gì cơ?” Gã thiếu niên hồi hộp hỏi.
Lão già giơ tay che miệng, ráng nói thật khẽ nhưng tất cả mọi người đều nghe thấy, “Nghe đồn Chúc Dung giết chết Đại vương tử phi của Cao Tân các ngươi nên Xi Vưu muốn lấy mạng hắn báo thù.”
Gã thiếu niên ỉu xìu trách móc: “Ông gạt người ta!”
Khách khứa trong quán cũng cười rộ lên, bầu không khí nặng nề mà chuyện về Xi Vưu mang lại khi nãy liền bị xua tan.
Lão già cười cười thi lễ cáo từ tất cả khách khứa, “Chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, nghe cho vui thôi mà.” Đoạn lão đeo cây đàn tam huyền cầm đứng dậy, vừa đi vừa lắc lư ngâm: “Thực là giả thời giả cũng thực, giả là thực thời thực cũng giả, thực thực giả giả đều là tướng, giả giả thực thực thảy đều không…” Bước ra khỏi quán, lão bất giác ngoảnh lại, trông thấy hồng y nam tử bên song cửa, lập tức sững cả người. Mấy trăm năm trước dưới Bác Phụ sơn, nam tử này trông cũng y như vậy, mấy trăm năm sau vẫn chẳng hề thay đổi. Năm đó lão tự phụ tu vi, nhận ra thanh y nữ tử xuất thân Thần tộc, bèn khích nàng ra tay dập lửa, nhưng không mảy may nhận ra nam tử kia có linh lực, đủ thấy linh lực của hắn sớm đã cao thâm khó lường.
Lão già râu dê vội quay vào quán, bước đến gần hồng y nam tử, cung kính hành lễ, “Không ngờ lại gặp người quen cũ, chẳng hay Tây Lăng cô nương có khỏe không?”
Hồng y nam tử chẳng buồn đáp, chỉ có chén rượu trong tay hơi sóng sánh, lão già lại cười hỏi tiếp: “Năm xưa lão có mắt như mù, dám hỏi công tử quý tính đại danh?”
Hồng y nam tử ngoảnh lại lạnh nhạt nhìn lão, khẽ thốt ra hai tiếng: “Xi Vưu!”
Lão già râu dê loạng choạng lùi lại rồi ngã phệt xuống đất, mặt cắt không còn giọt máu, ngây ra một thoáng, đoạn lết xết chạy thẳng ra ngoài, cả cây đàn tam huyền cầm cũng chẳng kịp nhặt lên. Khách khứa trong quán thấy vậy đều cười ầm ĩ, “Lão già này mới mấy chén đã say bò lăn bò càng rồi!”
Cả quán rượu xôn xao tiếng cười tiếng nói, riêng một người trơ trọi.
Xi Vưu cầm chén rượu vơi, đăm đăm nhìn về hướng Tây. Đương lúc mặt trời lặn, chân trời rạng rỡ lớp lớp mây ráng muôn màu, hoa lệ như gấm, tươi thắm tựa son nhưng trong mắt hắn chỉ có ngàn non tuyết muộn, vạn dặm mây chì.
Xi Vưu ngửa cổ dốc cạn chén rượu, đoạn đi thẳng ra cửa, đi mãi đến một nơi yên tĩnh mới gọi Tiêu Dao lại, bay về phía Cửu Lê.
Hôm nay là ngày giỗ của A Hành, hằng năm cứ đến ngày này hắn đều tới Ngu uyên cúng tế nàng, sau đó về Cửu Lê ở lại một đêm.
Tiêu Dao bay rất nhanh, chưa đầy một tuần trà đã đưa hắn tới Cửu Lê.
Xi Vưu bước vào gian nhà sàn giữa rừng hoa đào, lặng lẽ ngồi xuống, ánh trăng trong như nước loang khắp hiên nhà, gió lùa qua khóm trúc phượng vĩ vi vu. Xi Vưu tay phải bưng một ống trúc đầy Ca tửu, tay trái mâm mê Trụ Nhan hoa, vừa uống rượu vừa đăm đắm ngắm hoa đào nở đầy trên núi.
Đương vào độ tháng Tư, hoa đào nở rộ khắp núi đồi, rực rỡ như mây sớm ráng chiều, nhưng dưới cội hoa đào, nào đâu thấy người từng hẹn ước?
Xi Vưu nửa say nửa tỉnh, chếch choáng rút Bàn Cổ cung lấy được dưới địa cung Ngọc sơn từ mấy trăm năm trước ra, dốc hết linh lực giương cung thật căng bắn về phía Tây, nhưng chẳng thấy bất cứ động tĩnh gì.
Hai trăm năm nay, không biết bao nhiêu lần hắn giương Bàn Cổ cung lên, nhưng cây cung được truyền tụng có thể giúp người ta gặp lại người mình nhung nhớ bất kể ở chân trời góc biển nào lại chưa từng phát huy tác dụng.
Xi Vưu vẫn chưa chịu ngừng, liên tiếp giương cung, nhưng dù giương thế nào cũng vô hiệu. Lần nào lần nấy đều dốc hết toàn lực bắn ra, dù Xi Vưu thần lực cao cường cũng không sao duy trì được mãi, dần dà hắn sức cùng lực kiệt, ngã bệt xuống đất.
Xi Vưu nghiêng ống trúc, ừng ực dốc rượu vào miệng.
Xa xa trong núi, nghe văng vẳng khúc sơn ca vọng lại.
Tiễn chàng tiễn đến bên song
Mở toang cửa sổ mà trông lên trời
Trăng tròn vành vạch chàng ơi
Mà sao mãi chẳng thấy người đoàn viên?
Chàng đừng lầm lẫn tội em
Cuồng phong canh một, tạnh liền canh hai
Thoắt mưa đổ, thoắt nắng tươi
Đã trở mặt chẳng nhận người năm nao!
Ống rượu trong tay rơi tuột xuống sàn, Xi Vưu lắng tai nghe, nhưng tiếng hát đã ngừng bặt.
“A Hành!”
A Hành, nàng đang trách móc ta ư? Hắn nhảy xuống đất, đạp lên ánh trăng, loạng choạng tiến vào trong núi.
Càng đi sâu vào núi càng thấy bạt ngàn những cội đào, muôn vàn cánh hoa rụng rơi tan tác như mưa, đậu xuống mái đầu, xuống bờ vai, hoa rơi chẳng làm ướt áo, lại thấm ướt tim người.
“A Hành, A Hành, nàng ở đâu?”
Xi Vưu không ngừng réo gọi, gọi mãi gọi mãi, nào thấy bóng ai dưới cội đào?
Chỉ có gió đêm lạnh lẽo thổi tung mưa hoa, khi dồn dập, lúc lưa thưa, lả tả điêu linh như nước mắt đau thương của người con gái.
Hơi rượu tan dần, Xi Vưu từ từ tỉnh lại, nhận ra A Hành sẽ mãi mãi không bao giờ tới nữa.
Hắn đứng thẫn thờ nhìn gốc đào trước mặt, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm người nơi đâu?
Ánh trăng xuyên qua tán lá rọi lên thân cây lấp loáng, Xi Vưu chậm rãi lại gần, thấy trên thân cây khắc chi chít hai chữ “Xi Vưu”.
Hai năm sau khi A Hành ra đi, cũng vào tết Khiêu Hoa, hắn mặc tấm áo đỏ nàng may, đợi suốt đêm dưới cội hoa đào rồi say vùi giữa đám hoa tàn nhị rụng, trong cơn bi thống, hắn đột nhiên hận lây sang cội đào, giơ tay toan đập gãy gốc cây, vô tình phát hiện ra thân cây chi chít những chữ, định thần nhìn kỹ, là vô số chữ “Xi Vưu”.
Sáu mươi năm thư qua tin lại, hắn chỉ thoáng trông đã nhận ra nét chữ của A Hành, nhìn thấy nét chữ quen thuộc như máu thịt, lòng hắn chợt quặn lên như dao cắt, đau đến nghẹt thở, nét chữ vẫn đây mà người nay đâu?
Vô vàn chữ “Xi Vưu” chi chít trên cây, chữ vạch nông, chữ khắc sâu, cũng là bao nôn nóng và vô vọng đợi chờ của nàng.
Mấy trăm chữ “Xi Vưu”, từng đường từng nét đều chứa chan tình ý, mỗi khía mỗi vạch thảy chất ngất bi thương, rốt cuộc hôm ấy nàng đã đợi mất bao lâu? Để rồi khi rời khỏi ôm theo niềm tuyệt vọng đến nhường nào?
Xi Vưu nhắm mắt lại, miết tay theo từng nét chữ như muốn xuyên qua thời gian đằng đẵng hai trăm năm, thổ lộ với người con gái đứng dưới cội đào này hai trăm năm về trước, nỗi đau đớn và tương tư ứ đầy lòng.
Cứ miết hoài miết mãi, lòng bàn tay nóng rực lên, mà không sao sưởi ấm nổi những con chữ lạnh lẽo.
Đột nhiên, tay hắn miết phải một hàng chữ nhỏ, cả người run bắn, đau đớn ra mặt, rõ ràng hắn sớm đã khắc sâu những lời này trong dạ, những vẫn tỉ mẩn lần đọc từng chữ một như tự trừng phạt chính mình.
Là một hàng chữ nhỏ dùng trâm ngọc vạch nên, nét chữ ngả nghiêng rối loạn tố cáo nỗi thương tâm phẫn nộ của nàng lúc khắc.
“Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?”
Nàng chưa từng thất hứa, kẻ thất hứa luôn là hắn!
Nàng tin tưởng hắn, yêu thương hắn, bảo vệ hắn, nhưng hắn lại nghi kỵ nàng, căm hận nàng, làm tổn thương nàng!
Giọng nói tiếng cười của Xi Vưu bỗng hiện lên rành rành trước mắt, nàng đăm đăm nhìn hắn nửa hờn nửa giận.
Xi Vưu gục mặt vào thân cây, rưng rưng nước mắt, mấy lần tưởng không kìm nén nổi.
Hắn cũng như bao con đực trong rừng, sau khi chọn được kẻ phối ngẫu, liền dâng cho nàng đóa hoa đẹp nhất, thứ quả ngon nhất, thậm chí không tiếc mạng sống bảo vệ nàng, nhưng yêu nàng càng nhiều thì nghi kỵ càng sâu, hắn sợ nàng coi rẻ những thứ đó, lo nàng không hiểu ý mình khi hồi hộp dâng lên những hoa thơm trái ngọt đó, sợ nàng phụ bạc hắn, mà đâu ngờ rằng, nàng còn hiểu ý nghĩa của từng trái ngọt hoa thơm kia hơn hắn, nàng nhìn thấu trái tim hắn, cũng vô vàn trân trọng trái tim hắn.
Sau cùng, lại là hắn phụ lòng nàng.
Bàn tay Xi Vưu chà miết lên từng con chữ của nàng, như muốn cảm nhận hơi ấm ngón tay nàng, mùi hương trên tóc nàng. Nhưng nào đâu thấy hơi thở người xưa.
Hai trăm năm! Nàng ra đi đã hai trăm năm rồi!
Nước mắt không cầm giữ nổi tràn ra khóe mắt Xi Vưu, chảy dài trên thân cây, thấm loang lổ hai chữ “Xi Vưu”. Dù lật tung ngũ hồ tứ hải, tìm khắp lục hợp bát hoang, hắn cũng chẳng thể nào bù đắp được cho nàng nữa.
Cách đó ngoài ngàn dặm, ở nơi mặt trời lên – Thang cốc.
Khác với Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, quanh năm vần vũ khói đen, bầu trời Thang cốc luôn trong xanh sáng sủa. Trông về hướng Đông mênh mông sóng biếc vờn gió nhẹ, chín gốc phù tang[2] cực lớn sừng sững nhô lên giữa bể khơi, tán xòe rộng như trái núi, đầu cành đỏ rực những hoa, từ xa nhìn lại hệt như từng cụm mây hồng dập dềnh trên nền xanh thăm thẳm.
[2] Loài cây được tôn xưng là thần thụ, sinh trưởng ở Thang cốc, nơi mặt trời mọc.
Giữa hai màu xanh đỏ đan xen, chợt điểm xuyết một đốm trắng và một vệt lam.
Bạch y nam tử ngồi trên cành phù tang, khoan thai gảy đàn, thư thái tựa gió lành thấm áo. Lam y nam tử say sưa múa kiếm, thần thái như mây trôi nước chảy, kiếm khí tung hoành rực rỡ tựa cầu vồng, hoa tuyết lả tả tuôn rơi theo mũi kiếm, băng tuyết mù mịt phủ quanh mình, nhưng gương mặt y còn lạnh lẽo hơn cả băng tuyết.
Hai nam tử này chính là Thiếu Hạo và Thanh Dương nổi danh khắp đại hoang.
Hoa tuyết càng đổ càng mau, nhiệt độ càng lúc càng xuống thấp theo kiếm thế.
Chờ Thanh Dương múa hết bài kiếm, Thiếu Hạo lập tức nhảy xuống, bưng ngay lấy vò rượu rót chừng lưng chén lưu ly, nhấp một ngụm rồi xuýt xoa khen ngợi: “Ngon thật, ướp lạnh vừa đến độ!” Nói đoạn y lại rót một chén rượu bồ đào đưa cho Thanh Dương.
Thanh Dương nhấp một ngụm, hờ hững nhận xét: “Vị rượu hơi chát nhưng dư vị lại thơm ngát, tay nghề ủ rượu của ngươi càng ngày càng cao minh rồi.”
Thiếu Hạo đắc ý: “Người khác chẳng ai nhận ra được đâu, luận về phẩm rượu, nếu ngươi đứng hàng thứ hai thì không kẻ nào dám xưng đệ nhất cả.”
“Ở nhà cũng chẳng đến lượt ta xếp thứ nhất đâu, A Hành mới…” Thanh Dương thoáng khựng lại, rồi thản nhiên nói tiếp, “A Hành từ nhỏ đã mê rượu, trong lúc người khác dốc sức luyện công, muội ấy chỉ chăm chăm tìm cách lấy trộm rượu, vị giác được rèn giũa ngày ngày, vô cùng linh mẫn”
Thiếu Hạo tắt hẳn nụ cười, lặng lẽ rót rượu cho Thanh Dương, Thanh Dương lại một ngụm cạn chén.
Đột nhiên, y lên tiếng hỏi: “Phụ vương ngươi gần đây có phản ứng gì không?”
“Người trên đại hoang đồn đại suốt hai trăm năm nay, lẽ nào phụ vương ta không nhận ra sự thật? Nhất định phụ vương đã biết vương tử phi trong Thừa Hoa điện là giả từ lâu rồi.”
“Vậy ngươi tính sao?”
“Phụ vương không hỏi thì ta cũng vờ như không biết thôi!”
“Đám đệ đệ như hổ sói của ngươi đời nào để yên cho ngươi, sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện, chẳng phải Trung Dung đã thăm dò mấy lần rồi đấy sao? Vương tử phi bệnh liệt giường suốt hai trăm năm, nói cho cùng cùng chẳng hay ho gì.”
Thiếu Hạo cười đáp: “Sao ngươi hồ đồ thế? Chỉ cần phụ vương vẫn muốn liên minh với Hiên Viên, Người sẽ không để bọn chúng gây chuyện, dù vương tử phi đó là giả cũng chẳng hề gì. Có điều một khi Hiên Viên hết giá trị lợi dụng thì dẫu kẻ kia là thật cũng không tránh nổi tai vạ.”
Thanh Dương lại hỏi: “Nghe nói Tuấn Hậu đang thuyết phục Tuấn Đế lập một nữ tử Thần Nông tộc làm chính phi cho Yên Long?”
Thiếu Hạo lắc lắc chén rượu trong tay, cười đáp: “Phụ vương ta hành sự khá cảm tính, vì sự vụ đăng cơ năm xưa mà vẫn luôn cảnh giác Thần Nông tộc, chưa chịu nhận lời vương hậu. Nếu ngươi không muốn Cao Tân liên minh với Thần Nông thì mau chớp thời cơ đi, dù sao ngươi vẫn chưa lập chính phi, sao không chủ động mở lời với Du Võng xin cưới vương cơ Thần Nông tộc. Tuy Vân Tang đã có ý trung nhân, e khó mà nhận lời ngươi, nhưng vẫn còn Mộc Cận kia mà.”
Thanh Dương cười thiểu não, “Ngươi định xui khiến huynh đệ ta lục đục à? Bao năm nay, phụ vương ta cũng phải bó tay với tên Xương Ý cứng đầu cứng cổ kia rồi.” Từ khi A Hành qua đời đến nay, Xương Ý vẫn chưa hề trò chuyện với Thanh Dương nửa lời, hơn nữa còn tâu rõ với Hoàng Đế, trừ phi Du Võng giết chết Chúc Dung và Xi Vưu bằng không y thề không đội chung trời với Thần Nông, Hoàng Đế phí bao tâm huyết mới thu phục được Nhược Thủy, vậy mà giờ lại không dám phái các chiến binh Nhược Thủy ra trận.
Thiếu Hạo cũng than thở: “Đúng là mặt sứa gan lim, dù phụ vương ngươi có ba đầu sáu tay, đụng phải Xương Ý cũng đành hết cách!”
Thanh Dương xách vò rượu lên nốc ừng ực, hôm nay là ngày giỗ tiểu muội y, dường như chỉ có say mèm may ra mới xoa dịu được nỗi lòng.
Sau khi A Hành mất, Thanh Dương từ mê rượu đã thành ra nát rượu, Thiếu Hạo muốn khuyên cũng chẳng biết phải khuyên từ đâu. Y đành giương mắt nhìn Thanh Dương chìm đắm trong hơi men, hốt nhiên nhớ lại tình cảnh lúc gặp Thanh Dương lần đầu hơn hai ngàn năm về trước.
Đó là một chiều mùa hạ oi ả, y đang ngồi hóng mát dưới gốc hòe trong sân.
Thanh Dương miệng ngậm cọng cỏ, lưng đeo thanh kiếm gãy, nghênh ngang bước vào lò rèn, toét miệng cười hì hì nói với y, nụ cười chói ngời như nắng: “Huynh đài, nghe nói ngươi là thợ rèn giỏi nhất vùng này, sửa giùm ta thanh kiếm này nhé, ta sẽ mời ngươi uống rượu!”
Y nheo mắt nhìn Thanh Dương, chẳng hiểu sao trên đời lại có nụ cười phóng khoáng hào sảng đến thế, trong khoảnh khắc ấy, y thậm chí còn sinh lòng đố kỵ với gã thanh niên này.
Y sửa kiếm giùm Thanh Dương, Thanh Dương bèn mời y đi uống thứ rượu nóng khé cả cổ, đúng là loại rượu dở nhất mà y từng uống trong đời. Lúc này, y mới chừng vài trăm tuổi, còn chưa hiểu được rằng, trên đời này chẳng có gì là “nhất”, chỉ có “hơn”.
Có lẽ vì tay nghề y giỏi, mà cũng có lẽ vì y dễ gạt, chỉ cần vài chén rượu xoàng trả công là xong, khỏi phải mất tiền, nên Thanh Dương luôn tìm tới y nhờ sửa kiếm, về sau, chẳng hiểu sao lại thành ra: Thanh Dương tới nhờ y sửa kiếm, y mời Thanh Dương uống rượu, lúc tiễn biệt còn tặng cho Thanh Dương một bộ đồ, một vò rượu.
Thanh Dương chẳng hề thấy có gì không ổn, y cũng không lấn cấn điều gì, chỉ có hai tên ngốc hằng ngày thụt bễ phụ y cho rằng Thanh Dương lợi dụng y, còn khuyên y nên cẩn thận.
Năm y năm trăm tuổi, cũng tròn năm trăm năm ngày giỗ mẹ y, phụ thân lại cưới thêm hai phi tử, đồng thời lập Đại Thường Hy thị, mẹ ruột Yên Long làm chính phi, y bị gọi về tham gia đại lễ sách phi. Y trở về, tươi cười suốt từ đầu buổi đến cuối buổi, còn tươi tắn hơn cả Yên Long.
Tối hôm đó, y cưỡi Huyền điều bay thẳng về phương Bắc, đuổi theo vì sao tít tắp cuối trời Bắc. Thuở nhỏ, mỗi khi y khóc đòi mẹ, vú nuôi lại ôm lấy y, trỏ vì sao ở tận cùng phía Bắc, dỗ dành: “Nhìn thấy chưa? Kia là mẹ con đấy, mẹ con vẫn luôn nhìn con kìa!”
Huyền điểu cứ thế bay bay mãi, tới khi y cạn kiệt linh lực mới đậu xuống.
Vùng cực Bắc ngàn dặm phủ băng, mênh mông tuyết trắng, ánh mặt trời cũng ngại rọi tới, một mình y trơ trọi lê bước, chẳng biết nên đi về đâu, cũng chẳng rõ mình không cam tâm cái gì.
Dưới trời gió tuyết lồng lộng, rét thấu xương, tối như hũ nút, y lạc mất phương hướng, linh lực đã cạn, chỉ tâm tâm niệm niệm rằng phải đi tiếp, không được dừng lại, hễ dừng lại là chết. Y chẳng hề sợ sệt, bởi vì từ nhỏ đến lớn, y vẫn luôn phải đơn độc lê bước thế này. Có điều y thấy sao mà cô đơn quá, như thể cả thế giới này chỉ còn lại mình y vậy.
Đúng vào lúc y cảm thấy gió tuyết vần vũ mãi không ngừng, bóng tối trải dài ra ngút ngàn, con đường lê thê, vĩnh viễn chẳng bao giờ đi hết, toan nằm xuống nghỉ ngơi, chợt có một tia sáng lóe lên giữa trời tuyết trắng. Y loạng choạng lết đến, thấy Thanh Dương mình khoác tấm lòng thú rậm dày, thò đầu ra cười hì hì: “ Gió tuyết liên miên bắn băng hồ, bập bùng đống lửa say mỹ tửu, vào đây uống rượu đi.”
Mỹ tửu cái đầu! Còn khó nuốt hơn cả bữa rượu xoàng lần trước, nhưng y uống vào lại thấy ấm ran cõi lòng.
Y chẳng hỏi tại sao Thanh Dương lại ở đó, Thanh Dương cũng không giải thích, nhưng tối đó y đã nói thật với Thanh Duong: “Ta mang họ Cao Tân.” Tuy rằng y hiểu Thanh Dương đã biết từ lâu, bằng không hẳn chẳng có mặt ở đây.
Thanh Dương vừa nhồm nhoàm nhai thịt hồ ly, vừa lẩm bẩm: “Ta họ Hiên Viên.” Rồi giơ ngón cái bóng nhẫy mỡ, kiêu hãnh trỏ vào ngực mình: “Ta, Hiên Viên Thanh Dương!”
Trong mắt Thanh Dương, dòng họ Cao Tân khiến cả đại hoang phải biến sắc cũng chỉ ngang hàng với dòng họ Hiên Viên của mình.
Thấy vậy, Thiếu Hạo bỗng thấy thoải mái hẳn, y phá lên cười ha hả, gió tuyết vần vũ ngoài kia chỉ càng làm cho bữa rượu túy lúy của cả hai thêm phần ý vị. Khi ấy, hai người đâu có ngờ, ngàn năm sau, Hiên Viên quả thật đã sánh ngang hàng với Cao Tân.
Mấy trăm năm sau, Hiên Viên tộc từ một Thần tộc nhỏ lẻ vô danh đã trở thành một trong ba đại Thần tộc hùng mạnh nhất, còn phụ thân y cũng chuẩn bị kế vị Tuấn Đế. Mười vạn đại quân Thần Nông vây chặt dưới thành, chỉ một mình y vung kiếm kháng cự, liên tiếp đánh bại sáu mươi đại tướng Thần Nông, nhưng Thần Nông vẫn không chịu lui binh, trong khi đó quân đội Cao Tân sau lưng y đã ngã lòng. Nửa đêm, đúng lúc y đang âm thầm trị thương, chợt Thanh Dương đeo kiếm lù lù xuất hiện, mặc một bộ đồ giống hệt y, đắc ý cười: “Thế nào? Giống lắm phải không? Từ giờ trở đi, ta cũng là Cao Tân Thiếu Hạo.”
Hôm sau, đại quân Thần Nông kinh hoàng phát hiện Cao Tân Thiếu Hạo chẳng khác nào một vị chiến thần có linh lực dồi dào, không bao giờ cạn, kế xa luân chiến nhằm vắt kiệt linh lực của y trở nên vô dụng. Trong ngày hôm đó, Thiếu Hạo liên tiếp đánh bại cả trăm người. Tới ngày thứ ba, khi Cao Tân Thiếu Hạo tràn trề linh khí, chẳng có vẻ gì là đã khổ chiến hai hôm bước lên đầu thành, vỗ kiếm cười hỏi: “ Còn ai muốn giao đấu với ta nữa không?”, quân sĩ Thần Nông rụng rời chân tay, đến dũng sĩ kiêu hùng nhất cũng không dám bước ra ứng chiến.
Tối hôm đó, đại quân Thần Nông thừa cơ lui binh, quân đội Cao Tân thấy tình thế không ổn, vội đem mấy viên tướng có ý chống đối giam lại, trình lên Thiếu Hạo.
Chẳng ai biết có hai kẻ thương tích đầy người loạng choạng xông vào một quán rượu cũ nát, vừa uống rượu vừa cười sằng sặc.
Thanh Dương chuếnh choáng say, bèn lôi đệ đệ ra khoe khoang với Thiếu Hạo, khoác lác nào là đệ đệ mình tuấn tú thế nào, thông minh ra sao.
Thiếu Hạo lè lưỡi nói, trẻ con trên đời đều như thế hết. Nghe vậy Thanh Dương đùng đùng nổi giận, kéo y bay về nhà mình, ôm em trai ra, buộc y phải thừa nhận đó là đứa trẻ tuấn tú nhất, thông minh nhất trên đời. Thiếu Hạo chẳng nhớ rốt cuộc mình có thừa nhận hay không, chỉ biết hai người bọn họ ôm theo đứa nhỏ, lại tiếp tục đi uống rượu. Uống đến say khướt, nhìn ra đường thấy quân lính rầm rập, gà bay chó sủa loạn lên, cả hai ngơ ngác không hiểu xảy ra chuyện gì. Chủ quán bèn thở vắn than dài nói con trai tộc trưởng bọn họ mới mấy tháng tuổi đã bị mất tích, chẳng hiểu tên trời đánh nào gây ra chuyện thất đức này. Thiếu Hạo và Thanh Dương phá lên cười nhạo: “Thật vô dụng, đến cả con mình đánh mất, đòi làm tộc trưởng gì chứ, nào, chúng ta uống tiếp đi!”
Uống mãi uống mãi, đôi bên nhìn nhau, đều cảm thấy có gì đó không ổn, Thiếu Hạo ngắm đứa nhỏ thiêm thiếp ngủ trong làn, bóp trán nghĩ ngợi một hồi buột miệng: “Thanh Dương này, hình như cha ngươi là tộc trưởng!”
Thanh Dương chăm chú nhìn đứa nhỏ, cau mày nghĩ ngợi. Say túy lúy mấy ngày, đầu óc y đâm ra u mê hẳn, nghĩ hoài chưa ra.
Thiếu Hạo lần theo bờ tường lẻn ra khỏi quán, lập tức chuồn về Cao Tân, vừa may kịp chuếnh choáng tới dự đại lễ đăng cơ của phụ vương.
Quãng thời gian đó thật sảng khoái vui vẻ, lần đầu tiên trong đời, y biết được thế nào là “huynh đệ bằng hữu”, lúc tịch mịch có thể cùng uống rượu ấu đả, dịp vui cười có thể chuốc chén say mèm, khi phiền não có thể dốc bầu tâm sự…
Từ khi Tuấn Đế đăng cơ đến nay, thấm thoát đã hơn hai ngàn năm.
Trong hai ngàn năm đó, Hiên Viên tộc đã trở thành một trong ba đại Thần tộc thao túng vận mệnh cả đại hoang, Hoàng Đế lập nên Hiên Viên quốc, lên ngôi xưng đế, nhưng mẹ của Thanh Dương đã chẳng còn là người phụ nữ duy nhất của ông ấy.
Trong hai ngàn năm đó, Thanh Dương đã có hai em trai. Y từng thấy Thanh Dương mừng rỡ khoe rằng Vân Trạch đã biết kêu mình bằng Đại ca, Thanh Dương hết sức cưng chiều Vân Trạch, y cũng coi Vân Trạch như em ruột mình, dạy cho Vân Trạch tất cả những gì nó muốn học. Vân Trạch quả là đứa nhỏ thông minh tuấn tú nhất trên đời, đúng như Thanh Dương nói, bất kể cái gì cũng học một biết mười, hơn nữa còn rất nhiều chuyện, biết quan tâm, chủ động gánh vác hết mọi trách nhiệm mà Đại ca lười không muốn gánh.
Trong hai ngàn năm đó, y đã chứng kiến Vân Trạch lìa đời, nghe Thanh Dương đau đớn khóc gào thảm thiết, tận mắt thấy địa vị và tính mạng Luy Tổ lâm nguy, Thanh Dương cũng dần đánh mất nụ cười tươi tắn cùng nhiệt tình hào sảng trong tim.
Gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm nhành cỏ, vừa đi vừa lắc lư, có nụ cười rạng rỡ khiến người khác phát ghen ấy đã hoàn toàn biến mất.
Suốt mấy canh giờ, Thiếu Hạo cùng Thanh Dương đã uống sạch mười mấy vò mỹ tựu.
Thiếu Hạo nằm phục trên cành phù tang với tay vớt trăng đáy nước, cành cây đung đưa, y cũng lắc lư theo, bỗng ùm một tiếng, y ngã nhào xuống nước, mất dạng.
Thanh Dương nằm dài trên cây, giơ cao vò rượu lên, há miệng vừa đu đưa theo cành lá,vừa dốc rượu vào miệng.
Nốc hết hũ rượu vẫn chưa thấy Thiếu Hạo nhô lên, Thanh Dương bèn vỗ vào thân cây gọi ầm ĩ: “Thiếu Hạo, ngươi còn không chịu lên, ta sẽ uống sạch rượu đấy.”
Thấy mặt nước vẫn lặng như tờ, Thanh Dương toan nhảy xuống vớt Thiếu Hạo thì đột nhiên thấy y nhô đầu lên, Thanh Dương liền đập cho y một chưởng: “Ngươi chưa say chết dưới đó à?”
Thiếu Hạo nghiêng mình tránh né: “Ta vừa phát hiện cái này lạ lắm, ngươi xuống mà xem.”
Thấy y không có vẻ đùa bỡn, Thanh Dương đành nhảy theo xuống nước, Thiếu Hạo dẫn đường phía trước, hai người cùng bám theo gốc phù tang mà lặn xuống. Nước ở Thang cốc rất lạ, theo lẽ thường càng lặn sâu xuống đáy hồ càng tối, nhưng hồ nước ở đây càng xuống dưới càng lóa mắt, cứ thế lặn xuống không mù mắt là may, đừng hòng nhìn thấy gì.
Hai mắt Thanh Dương đang khó chịu chợt dịu hẳn đi, trông thấy một hạt châu xanh biếc bập bềnh giữa vầng sáng lấp loáng, tỏa ra ánh sáng mát mắt.
Thiếu Hạo lên tiếng: “Lạ lắm phải không? Thang cốc là nơi mặt trời lên, nguồn nước nơi đây tinh khiết nhất trong thiên hạ, chẳng dung dưỡng sinh vật nào, thậm chí chín gốc phù tang từ thời thượng cổ mà người đời vẫn nói rằng sinh trưởng tại đây, thực ra cũng bắt rễ ở nơi khác.”
“Ừm.” Tuy Thanh Dương linh lực cao cường nhưng không sao mở miệng nói chuyện trong nước như Thiếu Hạo được.
“Tuy hơn trăm năm nay ta chưa hề lặn xuống Thang cốc nhưng bọn Yên Long nhất định đã có kẻ lặn xuống, thế mà chẳng ai phát hiện ra, vậy chỉ có thể giải thích rằng khi đó thứ này không tồn tại.” Thiếu Hạo cau mày nghĩ ngợi, “Rốt cuộc nó ở đâu ra nhỉ? Thang cốc là cấm địa của Cao Tân, muốn đem hạt châu lớn nhường ấy vào hẳn không dễ, nhiều khả năng hạt châu này dần nổi từ dưới kia lên.” Bản thân y cũng chẳng thể lặn sâu thêm nữa, nghe nói dưới đó mới chỉ có Bàn Cổ khai thiên lập địa từng xuống mà thôi, có điều mặt trời lặn xuống Ngu uyên rồi lại mọc lên ở Thang cốc, như vậy ắt Thánh địa Thang cốc và Ma vực Ngu uyên phải thông nhau.
“Bất kể… đợi… xem qua… là biết thôi.” Tuy Thanh Dương đã vận linh lực gắng mở miệng, nhưng tiếng nói vẫn bị nước hồ át đi gần hết.
Thiếu Hạo gật đầu, y vận linh lực nhấc hạt châu lên nhưng không sao nhấc nổi, Thanh Dương phải phụ một tay, hai người cùng vận linh lực ra sức kéo hạt châu lên mặt nước.
Lên tới mặt nước, Thiếu Hạo ngạc nhiên than: “Cái gì thế này? Trong thiên hạ lại có thứ phải hai ta hợp lực mới nhấc lên, nói ra chắc chẳng ai tin nổi.”
Thanh Dương cúi nhìn Bích ngọc châu bồng bềnh trên mặt nước, nom chẳng khác nào cánh bèo trôi nổi dập dềnh, ấy vậy mà khi nãy y phải hợp lực với Thiên Hạo mới kéo lên được.
Thanh Dương chạm vào hạt châu, thấy bỏng rãy tay, Thiếu Hạo vừa đụng tay vào cũng rụt ngay lại. Chẳng hiểu sao, Thanh Dương chợt thấy trong lòng dấy lên một cảm giác dịu dàng khó tả, lưu luyến mãi không nỡ rời.
Y rúng động, vội vung kiếm rạch một đường vào lòng bàn tay, máu tươi tứa ra, nhỏ xuống hạt châu, liền bị hạt châu hút sạch.
Thiếu Hạo thấy vậy cũng vô cùng kinh ngạc, lòng nhen lên một tia hy vọng mong manh, tim đập rộn lên vì hồi hộp. Y cầm lấy thanh kiếm từ tay Thanh Dương, giơ tay ra nhưng trù trừ mãi không rạch xuống, chỉ sợ hy vọng mong manh trong lòng tan mất.
Thanh Dương sốt ruột giục: “Thiếu Hạo!”
Thiếu Hạo lướt tay qua mũi kiếm, máu tươi phun ra, bắn lên hạt châu rồi từ từ chảy xuống, chẳng hề được hút vào.
Thanh Dương và Thiếu Hạo mừng rỡ, liền xúm lại cùng xem xét hạt châu.
Hồi lâu, Thanh Dương mới lên tiếng: “Tuy nói rằng Ngu uyên nuốt chửng mọi thứ nhưng theo truyền thuyết Bàn Cổ đại đế đuổi theo mặt trời từng nhảy xuống Ngu uyên, rồi chạy thẳng tới Thang cốc, ngươi bảo liệu A Hành có…” Thanh Dương khựng lại không nói tiếp nữa, chỉ áp bàn tay đầm đìa máu lên hạt châu, linh lực và máu tươi của y lập tức bị hạt châu hút ngay lấy. Trong nháy mắt, sắc mặt Thanh Dương đã nhợt nhạt hẳn đi, Thiếu Hạo phải giằng tay y ra, “Ngươi điên rồi à? Nếu thứ này thật sự từ Ngu uyên trôi tới thì chẳng biết là yêu hay là ma đâu!”
Thanh Dương cự lại: “Nhất định nó có liên quan tới A Hành, ta phải đem nó về gặp cha mẹ.”
“Để ta đi cùng ngươi.”
Thanh Dương lập tức từ chối: “Không cần đâu, đây là chuyện riêng của nhà ta.”
Thiếu Hạo sực hiểu ra, trong chớp mắt mọi thứ vụt trở về hiện thực, y là Cao Tân Thiếu Hạo, còn Thanh Dương là Hiên Viên Thanh Dương.
Quyển 2 – Chương 2: Gặp nhau há dễ nhận được liền[1]
Xi Vưu không sao tin nổi, thiếu nữ áo xanh trước mặt giống hệt A Hành trong ký úc của hắn, cũng chính là người con gái hắn tương tư suốt hai trăm năm, nguyện từ bỏ mọi thứ để đổi lấy nàng, vậy mà hai trăm năm sau gặp lại đã thành người dưng xa lạ, bao ân oán dây dưa thuở trước dường như chưa từng xảy ra.
Thà rằng nàng căm hận hắn, còn hơn là lãng quên hắn!
[1] Xem chú thích đầu chương 1.
Thanh Dương vừa đem hạt châu về Triêu Vân phong, Luy Tổ lập tức phái người đi mời Hoàng Đế tới.
Hoàng Đế căn vặn thật kỹ lai lịch của hạt châu, lại thấy hạt châu hấp thụ tinh huyết linh lực, bèn thuyết phục Luy Tổ: “Ta biết sau khi Hành nhi qua đời, bà đau lòng khôn xiết, ta cũng mong Hành nhi có thể trở về, nhưng thứ này không phải Hành nhi, chỉ là ma vật do Ngu uyên kết thành, nếu không hủy đi e hậu họa vô cùng.”
Luy Tổ xuất thân từ “Tứ thế gia” danh môn thượng cổ, hiển nhiên biết rõ ma vật đáng sợ nhường nào. Bà mân mê hạt châu, hồi lâu mới đáp: “Dù là ma vật cũng do Hành nhi biến thành, thiếp không tin nó lại hại cả cha mẹ đại ca.”
Thanh Dương và Xương Ý nhất loạt quỳ xuống dập đầu cầu khẩn Hoàng Đế.
Hoàng Đế bất đắc dĩ đành đồng ý thử một lần, “Nếu quả thật đây là ma vật hại người, phải lập tức trừ khử trước khi nó gây họa cho nhân thế đó.” Nếu để người trong thiên hạ biết được Hoàng Đế dung dưỡng ma vật, danh vọng của ông sẽ bị hủy hoại, cực kỳ bất lợi cho vương đồ bá nghiệp.
Hoàng Đế bí mật triệu Tri Mạt thạo bày trận pháp lên Triêu Vân phong bày bố Thần trận, lại cắt đặt hai tâm phúc của mình là Ly Chu và Tượng Võng trấn trận.
Hoàng Đế, Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý đồng thời rỏ linh lực cùng tinh huyết của mình vào hạt châu.
Hệt như Ngu uyên nuốt chửng mọi thứ, hạt châu này cũng tham lam hút hết linh lực và tinh huyết rỏ xuống, họ càng đổ nhiều tinh huyết và tinh lực thì hạt châu càng hút mạnh. Hoàng Đế thấy tình thế không ổn, bèn quả quyết cắt đứt mối dây liên kết giữa mình và hạt châu, nhưng Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý rõ ràng cảm thấy như bị Ngu uyên nuốt chửng, vẫn khăng khăng không từ bỏ.
Sắc mặt Luy Tổ nhợt hẳn đi, hệt như gốc đại thụ bị rút kiệt nước. Hoàng Đế phải cưỡng chế kéo bà ra, đồng thời cao giọng hạ lệnh ngừng trận pháp.
Xương Ý bủn rủn ngã lăn ra đất, hai mắt nhắm nghiền, mặt vàng như nghệ, cả người run lên cầm cập, rõ ràng đã bị trọng thương. Xương Phó trấn giữ bên ngoài trận pháp thấy vậy vội nhào tới giúp y bảo hộ linh thể.
Thanh Dương tái mét mặt, đờ người ngã phịch xuống đất, mất hết tri giác. Tuy y thần lực cao cường nhưng chính vì ỷ vào thần lực, lại áy náy trước cái chết của A Hành nên khi nãy đã bất chấp nguy hiểm, dốc hết linh lực và tinh huyết hơn cả, một lòng muốn cứu sống em gái, bởi vậy nên bị thương nặng hơn hết, nếu không phải Hoàng Đế kịp thời ngăn cản, e rằng tính mạng cũng khó giữ.
Thấy hạt ma châu này suýt hại chết hai đứa con mình, Hoàng Đế nổi giận đùng đùng, hạ lệnh cho Ly Chu: “Mang Tứ Tượng kính lại đây, bày Diệt Ma trận, tiêu hủy ma vật này đi.”
Luy Tổ yếu ớt níu tay áo Hoàng Đế vật nài: “Đừng mà!”
Nhìn dáng vẻ già nua tiều tụy của Luy Tổ, Hoàng Đế cũng chạnh lòng xót xa, bèn kiếm lời an ủi: “Hành nhi là đứa con gái duy nhất của ta, bà tưởng ta không thương nó ư? Có điều thứ này không phải Hành nhi, Thanh Dương vẫn luôn hổ thẹn trong lòng vì cái chết của Hành nhi, Xương Ý lại là đứa chấp mê bất ngộ, một ngày chưa trừ khử hạt châu này, hai đứa nó nhất định sẽ nghĩ cách đánh thức nó dậy. Hôm nay may mà có ta và Tri Mạt ở đây, giữ được mạng cho chúng, nhưng lần sau thì sao? Ta thật không muốn mất thêm hai đứa con trai nữa đâu. Đã mất một đứa con gái rồi, lẽ nào bà đành lòng vì nó mà đánh mất nốt hai đứa con trai sao?”
Nhìn hai đứa con trai trọng thương dưới đất, Luy Tổ hiểu Hoàng Đế nói phải, không thể giữ hạt ma châu này lại được. Nhưng từ tận đáy lòng, bà luôn cảm thấy đó là hóa thân của A Hành, lòng đau như dao cắt, nước mắt lã chã. Hoàng Đế biết Luy Tổ rất có ảnh hưởng đối với bọn Tri Mạt, sợ lát nữa Luy Tổ lại lên tiếng ngăn cản, bèn âm thầm vận linh lực khiến bà hôn mê, ngủ thiếp đi rồi sai cung nữ đưa Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý về Triêu Vân điện.
Ly Chu bẩm: “Tứ Tượng kính đem đến đây rồi, bày trận luôn bây giờ ư?” Diệt Ma trận là sát trận do Bàn Cổ lập ra, bất kể thần hay ma, một khi vào trận ắt cầm chắc cái chết, xưa nay chưa từng thấy kẻ nào sống sót bước ra khỏi Diệt Ma trận. Muốn bày trận cần tới thần khí Tứ Tượng kính, từ sau khi Bàn Cổ qua đời, Tứ Tượng kính do tổ tiên Tây Lăng Thị cất giữ, sau này Luy Tổ gả về Hiên Viên tộc, Tứ Tượng kính cũng trở thành của hồi môn của bà.
Đặt tay lên hạt châu, Hoàng Đế cũng cảm nhận được mối ràng buộc máu thịt giữa hạt châu và mình nên chần chừ chưa quyết.
Ly Chu kính cẩn đứng một bên đợi lệnh.
Nói cho cùng Hoàng Đế cũng là bá chủ một phương, dù lòng không nỡ nhưng ông tuyệt đối không để tình cảm chi phối, trù trừ hồi lâu bèn gật đầu ra hiệu cho Tri Mạt. Tri Mạt nhận lệnh, bắt đầu bày Diệt Ma trận.
Trận pháp vừa rậm rịch bày bố, sắc trời tối sầm lại, mưa to gió lớn ào ào trút xuống. Trời cao như cũng cảm nhận được mọi chuyện, bèn giáng sấm chớp xuống ì ùng.
Khí thiêng trong trời đất được Tứ Tượng kính triệu hồi vần vũ tụ lại. Thanh Dương và Xương Ý cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời, đồng loạt tỉnh dậy, trông ra ngoài thấy sắc trời đen kịt, mưa như trút nước, lập tức hiểu ra mọi chuyện, liền gắng gượng vùng dậy, nhưng Hoàng Đế sớm lường trước mọi chuyện, đã sai Thần tướng canh giữ, không cho hai người rời khỏi phòng nửa bước.
Xương Ý bất chấp thương thế, toan xông ra can ngăn, liền bị hai viên Thần tướng cản trở, ấn xuống giường, lấy xích Long Cốt xích lại. Mặc cho Xương Ý vừa giận vừa cuống chửi toáng lên, hai viên Thần tướng ngoài miệng thì “Điện hạ thứ tội” nhưng ra tay rất mau mắn, hiển nhiên Hoàng Đế đã ban nghiêm lệnh.
Thanh Dương cử động khó khăn lại hiểu con người Hoàng Đế hơn ai hết, tự biết chẳng có cơ hội xông ra, y chỉ ngồi lặng, đăm đăm trông về đỉnh Hiên Viên – sau màn mây dông vần vũ đang cuồn cuộn tụ về trên đỉnh Hiên Viên kia, thấp thoáng lóe lên ánh chớp, chờ tới khi bày xong trận pháp, sấm nổ vang trời, trận pháp sẽ tự động dẫn lửa trời giáng xuống, ngũ lôi oanh kích công phá hạt châu, triệt để hủy diệt nó.
Từ sau khi A Hành qua đời, Xương Ý không buồn mở miệng trò chuyện với Đại ca, lúc này thấy tình thế cấp bách, chẳng biết làm sao, mới đành lên tiếng cầu khẩn: “Đại ca, huynh cứ thế giương mắt nhìn tiểu muội tan xương nát thịt ư? Đệ không cần biết nó có phải ma hay không, đệ chỉ biết nó là muội muội của mình thôi.”
Y vừa dứt lời đã thấy Xương Phó khoác áo choàng, bưng hai hộp đồ ăn bước vào. Nàng đặt đồ ăn xuống đất, ghé tai Xương Ý nói nhỏ: “Thiếp đã huy động tinh binh Nhược Thủy, nhất định phải tìm cách trộm hạt châu đem ra.”
Xương Ý rung động cả tâm thân, siết chặt lấy tay Xương Phó, lòng rưng rưng bao điều muốn nói mà không sao thốt nên lời. Chống lại Hoàng Đế là tội chết, vậy mà Xương Phó vẫn bất chấp hậu quả, chẳng nề đem số mệnh cả tộc ra đối chọi với Hoàng Đế, nhưng y có thể ích kỷ, thí bỏ cả Xương Ý và Nhược Thủy tộc sao?
Hiểu lòng y đang nghĩ gì, Xương Phó dịu giọng: “Chàng quên lời thề giữa hai ta trong đêm tân hôn rồi ư? Phu thê một lòng, bên nhau suốt kiếp, sống chung chăn gối, chết chung huyệt mộ! Muội muội của chàng cũng là muội muội của thiếp, muội muội của thiếp chính là người của Nhược Thủy tộc, bất kể nguy hiểm đến đâu, Nhược Thủy tộc bọn thiếp quyết không bỏ rơi người của mình!”
Thấy Xương Ý gật gật đầu, Xương Phó kiên quyết đứng phắt dậy, toan bước ra ngoài, xông vào màn mưa gió, chợt Thanh Dương lạnh lùng lên tiếng: “Nếu đám bán yêu Nhược Thủy tộc cũng có thể phá giải Diệt Ma trận mà Hiên Viên tộc bày bố, Hiên Viên chẳng được cả đại hoang tôn xưng là một trong Tam đại Thần tộc. Giờ đây muội đã thành trưởng tộc, hành sự phải động não một chút, đừng tưởng cứ đâm đầu tìm chết là anh dũng đâu!”
Xương Ý rối cả ruột, liền trừng mắt nhìn Thanh Dương, vùng vẫy định nhào tới đánh cho y một trận, chỉ có Xương Phó tinh tế, nhận ra ẩn ý trong lời Thanh Dương, “Đại ca thấy làm vậy không ổn, vậy huynh có cách nào hay hơn không?”
Thanh Dương hờ hững đáp: “Giờ đây người nên ra tay cứu A Hành nhất không phải muội, mà muội cũng chẳng có năng lực đó.”
Xương Ý giận dữ buông lời chế nhạo: “Vậy ai mới nên? Chắc là chàng rể huynh chọn cho A Hành, Cao Tân Thiếu Hạo hả? Tuy hắn có năng lực thật đấy, nhưng chúng ta lấy đâu ra Hà Đồ Lạc Thư mà trao đổi nữa!”
Thanh Dương chẳng chấp Xương Ý, chỉ ngoảnh sang bảo Xương Phó: “Muội cưỡi tọa kỵ của ta đi tìm Xi Vưu, báo tin cho hắn hay.”
Xương Phó sực hiểu ra, hàng năm nàng đều cùng Xương Ý tới Ngu uyên bái tế A Hành, suốt hai trăm năm, năm nào cũng thấy ngoài Ngu uyên có thêm mấy gốc đào. Mấy năm đầu Xương Ý thường nổi giận nhổ sạch, nhưng Xi Vưu lại lặng lẽ trồng xuống, Xương Ý nhổ bao nhiêu, hắn trồng lại bấy nhiêu, về sau Xương Ý chẳng buồn nhổ nữa, chỉ cười nhạt nói: “Để xem hắn trồng được bao lâu”, thật chẳng ngờ, hắn đã trồng suốt hai trăm năm.
Thanh Dương lại dặn dò: “Muội bảo Chu Du lập tức báo cho Thiếu Hạo hay.”
Thấy Xương Ý định phản đối, Thanh Dương trừng mắt nhìn y: “Dù sao A Hành cũng là vợ cưới hỏi đàng hoàng của Thiếu Hạo, cứu hay không cứu là do hắn, nhưng phải cho hắn biết tình hình hiện tại, huống hồ thêm một người là thêm một cơ hội kia mà.”
Xương Ý trầm ngâm giây lát rồi gật đầu với Xương Phó, nàng liền khép vạt áo, bước ra ngoài trời mưa gió.
Vì bày bố Diệt Ma trận, trăm dặm quanh Hiên Viên sơn vần vũ mây đen, mưa rào rào như trút nước, ánh chớp lấp loáng sau màn mây dông tựa vô số rắn vàng uốn éo, cả bầu trời như một mảnh vải đen kịt thêu đầy những hoa văn vàng rực rối mắt.
Mưa gầm gió rít thổi bạt đi tất cả âm thanh, vậy mà trong tiếng mưa gió sầm sập, vẫn nghe văng vẳng giọng ca thê thiết.
“A ối à ối a
Mình đành nhắm mắt mãi sao
Chẳng buồn hé mở chút nào nhìn ta
Nếu ta làm nát lòng hoa
Xin mình cứ móc mắt ta cho rồi
Miễn mình mở mắt ra thôi…
A ối à ối a
Mình đành quên lãng thế sao
Quên bao ngày tháng xiết bao hẹn thề
Vì ta, mình luồng tái tê
Móc tim, ta cũng sá gì mình ơi
Miễn mình lại tái sinh thôi…”
Xi Vưu giẫm trên lưng đại bàng, áo đỏ phần phật, xé gió băng mưa mà đến.
Ly Chu bước ra quát: “Mau dừng bước, phía trước là cấm địa của Hiên Viên tộc.”
Xi Vưu chẳng buồn nhìn lão, cao giọng nói với Hoàng Đế trên đỉnh núi: “Ta là Xi Vưu, Đốc Quốc Đại tướng quân của Thần Nông, mấy hôm trước lỡ đánh mất một hạt tâm châu, ngày đêm trăn trở không yên, nghe nói Hoàng Đế nhặt được bèn vội vã tới xin lại, mong ngài ban trả cho ta, Xi Vưu vô cùng cảm kích.”
Ly Chu hỏi: “Chẳng hay Đại tướng quân làm sao chứng minh được hạt châu đó là của ngài?”
Xi Vưu bèn tả lại rành rọt từ kích cỡ đến màu sắc hạt châu khiến Ly Chu cứng họng không vặn vẹo nổi. Thấy vậy Tượng Võng khẽ bẩm Hoàng Đế: “ Hay là để thuộc hạ dẫn binh đuổi hắn đi?”
Hoàng Đế lắc đầu: “Xi Vưu tính tình cuồng ngạo, hắn vừa nhận mình là Đốc Quốc Đại tướng quân của Thần Nông nhằm chứng tỏ rằng hắn có thể huy động quân đội Thần Nông, cảnh cáo chúng ta nếu không muốn hắn động binh thì đừng dại động binh trước. Lỡ chúng ta không chứng minh được hạt châu đó không phải của hắn thì hắn sẽ thắng thế, mà quả thực hiện giờ chúng ta chưa có cách nào chứng minh được cả.” Hoàng Đế không muốn vạch áo cho người xem lưng nên chẳng hề cho bọn Ly Chu biết lai lịch hạt châu, càng không đời nào tiết lộ với người đời rằng hạt ma châu đó là hóa thân của con gái mình. Nếu người trong thiên hạ biết con gái ông đã thành ma, danh tiếng của ông ta sẽ phải chịu đả kích ghê gớm.
Tượng Võng giận dữ thét: “Đánh thì đánh! Ai sợ hắn chứ?” Những tướng sĩ bỏ mạng trong trận Đại Thì sơn đa phần là thuộc hạ của Tượng Võng, nên lão thù Xi Vưu tới tận xương tủy.
Hoàng Đế trừng mắt với Tượng Võng: “Sao ngươi mãi không sửa được tính nóng nảy thế? Ta đã bảo ngươi bao nhiêu lần, phải cẩn thận kẻo rút dây động rừng kia mà? Không nhịn việc nhỏ sẽ hỏng hết việc lớn! Hiện giờ quốc lực Hiên Viên có thể toàn diện khai chiến được với Thần Nông sao?” Thấy Tượng Võng cúi đầu làm thinh, Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi lạnh lùng phán: “Cứ để hắn biết khó khắc lui! Xưa nay chưa một ai vượt qua được Diệt Ma trận, nếu hắn cứ muốn đâm đầu thì càng hợp ý ta, dù hắn bỏ mạng trong trận cũng không liên quan gì tới chúng ta cả!”
Ly Chu hiểu Hoàng Đế muốn dựa vào Diệt Ma trận để lấy mạng Xi Vưu, bèn cao giọng bảo hắn: “Hạt châu này hút máu người, đoạt mạng người, hẳn không phải tâm châu của Đại tướng quân. Hiện giờ Diệt Ma trận đã bày xong, mời Tướng quân đích thân vào thử xem, một khi xác định không phải tâm châu, xin ngài tức tốc lui ra, để khỏi bị ma vật liên lụy, rước họa vào mình.”
Lão vừa dứt lời, mọi người đều lục đục lui xuống.
Xi Vưu rảo bước tiến vào Diệt Ma trận. Viêm Đế từng giảng giải cho hắn về uy lực của trận thế này, Diệt Ma trận do thượng cổ thần khí Tứ Tượng kính bày ra, bao gồm bốn trận pháp, ngụ ý chỉ tứ tượng trong đời người – tử, sinh, ảo, diệt. Trận pháp vô cùng quái dị, xưa nay chưa kẻ nào vượt qua nổi, vô số cao thủ xông vào, không hóa điên thì bỏ mạng, nghe nói Bàn Cổ từng tuyên bố kẻ nào vượt qua được Diệt Ma trận sẽ ban cho Tứ Tượng kính, mãi về sau một tên ngốc nhà Tây Lăng không có chút linh lực nào lạc vào trận pháp, lại lớ ngớ thoát ra được, Bàn Cổ bèn ban Từ Tượng kính cho tổ tiên Tây Lăng Thị.
Xi Vưu đã bước vào tượng đầu tiên của Diệt Ma trận – Tử kính.
Hai mươi tư khối đá tảng được chạm trổ thành hai mươi tư thần tướng thân mang kim giáp, vung kích vàng, trợn mắt hung hãn nhìn Xi Vưu.
Kim Giáp thần dũng mãnh vô song, lại không có máu thịt, không biết mệt mỏi đau đớn, càng chẳng biết sợ sệt, tựa hồ chẳng hề có khuyết điểm, nhưng thực tế, ưu thế của chúng chính là khuyết điểm, không có cảm giác, hành động sẽ rất cứng nhắc, thiếu linh hoạt. Đối phó với chúng, hạng cao thủ tuyệt đỉnh linh lực cao thâm như Xi Vưu chỉ cần dùng hư chiêu đến dử, dần dà sẽ tìm ra sơ hở trong chiêu thức rồi dựa vào đó mà phản công. Nhưng hắn đang lo lắng cho A Hành, lòng như lửa đốt, nào dám lãng phí thời gian, vừa ra tay đã dốc hết toàn lực, lấy cứng chọi cứng, Kim Giáp thần cương mãnh thì Xi Vưu còn cương mãnh hơn, một mình hắn đấu ngang ngửa với hai mươi tư pho tượng đá.
Có điều, dần dà Xi Vưu phát hiện ra, dùng linh lực công kích chẳng thương tổn được Kim Giáp thần, chúng không ngại nước lửa, cũng chẳng sợ gì đao kiếm.
Tẳng mây đen kịt trên không càng lúc càng trĩu xuống, Xi Vưu nôn nóng muốn dứt điểm, thầm hạ quyết tâm dù chết cũng phải vượt qua trận này.
Thấy một tên Kim Giáp thần tấn công mình, hắn không tránh không né, chỉ gầm lên 1 tiếng, hai tay đưa ra đối chiêu với Kim Giáp thần. Tuy Xi Vưu cương mãnh nhưng dù sao cũng là máu thịt đối chọi với đá tảng, hắn không khỏi thấy huyết khí cuộn lên trong lồng ngực, song vẫn thừa cơ túm lấy tay Kim Giáp thần, thét lớn, bẻ gãy rời vứt xuống đất, đoạn phun ra một bụng máu.
“Tới đi!”
Xi Vưu gầm lên, dùng phương pháp hoang dã nhất mà cũng hữu hiệu nhất, đối phó với đám Kim Giáp thần.
Chỉ một tuần hương, hai mươi tư Kim Giáp thần đều biến thành những pho tượng đá cụt tay, không ngăn cản nổi Xi Vưu nữa, đổi lại, hắn cũng phải trả giá đắt, khắp người đầy thương tích, đồng thời gãy mất hai rẻ xương sườn.
Đây mới là tượng đầu tiên trong tứ tượng!
Xi Vưu ngước mắt nhìn mây đen vần vũ trên đầu, lao vút đi.
Tượng thứ hai là Sinh kính, tên sao trận vậy, không có tấn công, cũng khỏi cần trả giá hay đổ máu, thoạt nhìn vô cùng yên bình. Trận pháp hội tụ băng tuyết do hàn khí kết thành, chẳng có xảo quyệt gì phá được, cách duy nhất chỉ là lê bước băng qua gió tuyết mà thôi.
Xi Vưu bước vào giữa một trời gió tuyết, càng đi sắc trời càng tối sầm lại, tuyết đổ càng nhiều, lạnh đến đông cứng cả xương cốt, dẫu thần tiên linh lực cao thâm bậc nhất cũng không sao chịu nổi cái giá buốt do hàn khí chí âm của trời đất tạo thành. Mới đầu Xi Vưu thấy lạnh buốt cả xương, phải liên tục vận linh lực phản kháng, nhưng cứ đi đi mãi, hắn dần dà lạnh đến mất đi cả tri giác, không còn cảm thấy lạnh, cũng chẳng cảm nhận được gió tuyết nữa, thần trí chỉ còn là một mảnh mơ hồ, chừng như đã quên cả mình là ai.
Trong cơn mơ màng, hắn tựa hồ quay trở lại thuở ấu thơ, khi còn là một con dã thú tung hoành giữa rừng già, không ngừng giết chóc, giành giật địa bàn, cướp đoạt thức ăn.
Đồng loại của hắn hoặc chết hoặc tới mùa xuân lại đi xây tổ ấm, hễ hắn mon men lại gần, chúng đều nhe nanh múa vuốt gầm gừ đe dọa. Hắn không hiểu tại sao lại thế, chỉ thấy mình vô cùng cô đơn, nỗi cô đơn còn buốt giá hơn băng tuyết.
Năm này qua năm khác, toàn là giết chóc, đổ máu, chết thảm, năm này qua năm khác, đám dã thú trong rừng dường như cũng nhận ra hắn khác bọn chúng, không chịu gần gũi với hắn nữa, năm lại năm, chỉ còn mình hắn tung hoành. Nỗi cô đơn mỗi lúc một thêm nặng trĩu, nỗi cô đơn trơ trọi bởi không tìm được đồng loại trên thế gian, niềm đau khổ dồn nén lại, không nơi giãi bày thổ lộ, nhưng hắn cũng chẳng hiểu nổi, mình đau khổ vì lẽ gì?
Có lần hắn tò mò mon men tới một thôn trang của con người, thấy đám trẻ tung tẩy nô đùa, hắn thích thú vô cùng, dường như những tiếng cười giòn tan ấy có thể xua tan hết bao đau khổ dồn nén trong lòng vậy. Hắn muốn lại gần bọn họ, nhưng bọn họ ném đá vào hắn, lấy lửa đốt hắn, vung đao kiếm đâm hắn.
Đầu hắn bị đá ném trúng, lông lá trên người bị lửa thiêu, thân thể bị thương vì đao kiếm, hắn đành vắt chân lên cổ mà chạy, chạy đến lúc mệt nhoài.
Trời đất tối đen, như đang dịu dàng dỗ dành hắn, nghỉ ngơi đi, nghỉ ngơi thôi! Chỉ cần ngủ thiếp đi, sẽ chẳng phải chịu đau đớn nữa!
Xi Vưu toan ngả lưng nằm xuống đánh giấc, nhưng tận sâu trong đáy lòng cứ nhức nhối một chấp niệm, dường như trái tim hắn đã khuyết đi một mảnh, dù muốn ngủ cũng phải tìm lại được mảnh tim đã mất, dựa vào nó mà ngủ thì sẽ có thể sở hữu tiếng cười xua tan hết thảy tối tăm và đau khổ, sẽ có được sự dịu dàng, sẽ không còn cô đơn nữa.
Rốt cuộc là thiếu mất cái gì nhỉ? Và mảnh khuyết đó giờ đang ở đâu?
Xi Vưu ngửa mặt đón gió, tiếp tục lê bước, lảo đảo băng qua bão tuyết.
Đột nhiên tuyết tạnh mây tan, trời trong nắng ấm, ánh mặt trời rọi lên mình Xi Vưu, trông hắn hệt như một cây cột băng tuyết, chẳng còn ra hình người, từ đầu đến chân đều đóng băng, mặt mũi bị băng tuyết phủ kín.
Xi Vưu sững sờ khựng lại, ngơ ngác không hiểu mình đang ở đâu, cũng chẳng rõ mình là ai. Trước đây cũng từng có kẻ kiên trì vượt qua được Sinh kính nhưng bước ra khỏi trận là mất hết thần trí. Vốn dĩ Bàn Cổ dùng khí âm hàn giá buốt nhất đất trời trong trận này để ví von với cuộc đời lạnh lẽo tàn khốc, khảo nghiệm ý nghĩa cuộc sống của con người ta: ngươi vượt qua được Tử trận của Kim Giáp thần, chứng tỏ ngươi đủ năng lực giành lấy mọi thứ mà ngươi muốn, nhưng bất kể vì danh, vì lợi, vì quyền, vì tình, vì nghĩa, chấp niệm của ngươi có thể sưởi ấm kiếp sống lạnh lẽo của ngươi không? Có thể khiến ngươi kiên cường đối mặt với hết thảy giá buốt trên thế gian, chống đỡ cho ngươi vượt qua phong ba bão táp trong đời chăng?
Chỉ lát sau, Xi Vưu đột ngột vùng khỏi đống băng tuyết đông cứng trên người, dang tay ngửa mặt nhìn trời, thét lớn: “A Hành! Là A Hành! Ta phải tìm được A Hành!”
Hắn biết sấm sét đã giáng xuống bên ngoài trận pháp, A Hành sắp gặp nguy ngập nên chẳng dám chần chừ, lập tức tiến vào tượng thứ ba – Ảo kính.
Trời nhẹ mây cao bát ngát, núi rừng xanh ngắt mênh mông, loài hoa dại không tên nở khắp sườn đồi, khiến khung cảnh đượm vẻ bình yên mà mỹ lệ.
Xi Vưu loạng choạng chạy như điên như dại, A Hành, đợi ta, ta đến bây giờ đây! Lần này ta quyết không làm nàng thất vọng nữa đâu!
Cứ chạy mãi chạy mãi, đột nhiên hắn thoáng thấy Thiếu Hạo áo trắng như tuyết, dung mạo tuấn tú, phong thái ung dung đang đứng đón gió giữa đồng hoa, còn cười bảo hắn: “Ngươi tới chậm một bước, ta đã cứu được A Hành rồi!”
“A Hành đâu?”
Vừa dứt lời đã thấy A Hành khoan thai tiến lại, nắm chặt lấy tay Thiếu Hạo, tựa người vào y, đắm đuối ngước mắt nhìn y.
Thiếu Hạo nắm lấy tay nàng leo lên lưng Huyền điểu, ném lại một câu: “Ngươi mau ra khỏi trận đi, ta đưa A Hành về Cao Tân đây!”
“A Hành, A Hành!”
Bất luận hắn thét gọi thế nào, A Hành chỉ một mực tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo.
Xi Vưu hồn xiêu phách lạc lê bước, mặc cho Tiêu Dao sà xuống bên cạnh, xót xa nhìn hắn. Cơn giận điên cuồng trào lên trong lòng Xi Vưu, hắn rốt cuộc có chỗ nào không bằng Thiếu Hạo? Vì sao hết lần này tới lần khác nàng đều chọn Thiếu Hạo mà vứt bỏ hắn? Tại sao nàng không tha thứ cho hắn, trong khi lại dễ dàng quên khuấy Thiếu Hạo từng vì nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư mà bỏ rơi nàng? Lẽ nào bởi Thiếu Hạo xuất thân tôn quý, sẽ có ngày trở thành vua một nước hay sao?
Được lắm! Ta sẽ cho nàng thấy rốt cuộc ta và y, ai mới thành vua một nước?
Nói là làm, hắn liền cưỡi Tiêu Dao quay về Thần Nông, vung kiếm huy động đại quân, vó sắt quét qua, máu rải vạn dặm, hạ hết toàn thành này tới tòa thành khác, diệt Hiên Viên, hủy Cao Tân, cả thiên hạ đều quỳ dưới chân hắn, tướng lĩnh thuộc hạ hắn đồng loạt rộ lên hoan hô. Nhưng người quỳ rạp dưới chân hắn ngày càng đông, ánh mắt mọi người càng kính sợ e dè, hắn càng cảm thấy khó chịu, tiếng hoan hô vang trời dậy đất của bao nhiêu người chỉ làm hắn day dứt nhớ vò rượu Du Võng lén trộm đến Thảo Ao lĩnh cho hắn.
Hắn xách rượu tới tìm Du Võng, Du Võng lạnh lùng nhìn hắn: “Ngươi đến ban chết cho ta phải không? Nghe nói đám tướng quân kia khuyên ngươi phế tên vô dụng ta đây, tự lập làm đế.”
“Không, ta chỉ tới tìm ngươi uống rượu.”
Du Võng quay lưng lại phía hắn, bóng lưng y lẻ loi mà cao khiết, “Lòng ngươi tanh lòm những máu, làm ta phát nôn!”
Xi Vưu lẳng lặng lui ra khỏi đại điện, ngửa cổ dốc rượu vào miệng, nhưng không sao tìm lại mùi vị xưa kia nữa. Những tháng ngày trên Thảo Ao lĩnh, khi hắn còn chạy bằng bốn chân như dã thú, hung tợn trừng mắt nhìn Du Võng, trong khi Du Võng chỉ ngốc nghếch cười khì, dùng rượu dụ dỗ hắn, làm thân với hắn cũng chẳng cách nào quay trở lại.
Đại quân bao vây quanh đô thành của Cao Tân, chỉ còn Cao Tân vương thất cố thủ trong thành, đây đã là trận chiến cuối cùng.
Nửa đêm, A Hành lẻn đến thổ lộ tâm tình khiến Xi Vưu hắn vui mừng vô hạn, hai người hoan lạc suốt đêm.
Nhưng ngày hôm sau, đội quân của hắn bị mai phục, vô số binh lính bị giết, hắn trông thấy Phong Bá, huynh đệ keo sơn của hắn khắp người đầm đìa máu, chết ngay trước mắt mình, đám Si Mỵ Võng Lượng[2] chỉ mặt A Hành gào lên: “Là ả bán đứng chúng ta! Chính ả đã hại chết Phong Bá!”
[2] Si Mỵ Võng Lượng: theo truyền thuyết là thuộc hạ dưới trướng Xi Vưu, sau này được dùng để chỉ chung các loài yêu ma quỷ quái. (ND)
Xa xa, Thiếu Hạo dẫn theo thiên quân vạn mã ập đến, dịu dàng gọi: “A Hành.”
Xi Vưu lạnh buốt cả người, trợn mắt nhìn A Hành, “Là nàng làm phải không? Nàng bảo Thiếu Hạo mai phục chúng ta ư?”
A Hành làm thinh, chỉ ngồi lặng.
Si Mỵ Vọng Lượng lại bày ra la liệt tội chứng của A Hành, khiến tất cả binh sĩ kích động, mặt đầy những máu, vung giáo tuốt gươm, sôi sục căm thù đòi giết nàng.
Xi Vưu nhìn Phong Bá ngã gục dưới chân, lại nhìn A Hành bên cạnh, lòng như chìm xuống hầm băng, đau đớn quặn lên trong dạ.
A Hành không cầu khẩn, cũng chẳng biện minh, chỉ ngẩng đầu lặng lẽ nhìn hắn.
Xi Vưu đột nhiên hồi tưởng lại những chuyện xa xưa, hoa đào nở rộ, A Hành tay xách giày thêu, tay vén quần lụa tung tăng giữa dòng suối, đuổi theo vờn nghịch những cánh hoa rơi, muôn vàn cánh đào lả tả rụng xuống trước mặt hắn, khiến hắn chợt nhớ trước khi nàng rơi xuống Ngu uyên còn khóc ra máu, gằn từng chữ: “Nếu hôm nay đổi lại là ta, ta sẽ tin tưởng ngươi!” Lòng hắn từ từ lắng xuống, hết thảy mọi nôn nóng, nghi kỵ, thậm chí đau đớn và cô đơn đều tan biến cả. Thì ra rất nhiều đau khổ trên đời này đều từ lòng mình mà ra, nếu lòng tĩnh tại thì đâu đâu cũng là miền an lạc.
Xi Vưu kiên quyết nói với bọn Si Mỵ Võng Lượng như chém đinh chặt sắt: “Ta tin nàng, vì nàng là A Hành của ta! Nếu các ngươi muốn giết nàng thì phải bước qua xác ta trước đã!”
Vừa dứt lời, A Hành, Phong Bá, Si Mỵ Vọng Lượng đều biến mất cả.
Chẳng có Thiếu Hạo, chẳng thấy chiến trường, cũng không hề có máu tươi hay thi thể, hết thảy mọi thứ đều không có.
Xi Vưu ngây người ra, không dám tin rằng hết thảy giang sơn nhuốm máu, sinh tử hào tình kia chỉ là ảo ảnh!
Cảm thán thay, bóng câu qua cửa, lửa xẹt đá mài, trần ai trong mộng[3], được rồi mất, mất rồi lại được, dường như cả cuộc đời này chỉ là một trường ảo tưởng trong trận pháp vừa rồi mà thôi. Vui vì có được ư? Đau bởi mất mát ư? Ảo ảnh tan rồi, điều quan trọng nhất còn đọng lại trong lòng người là gì đây?
[3] Nguyên văn: “嘆隙中駒, 石中火, 夢中身” (Thán khích trung câu, thạch trung hỏa, mộng trung thân), ba câu này rút từ bài Hành Hương tử của Tô Đông Pha (1036-1101) thời Tống, có thể hiểu là: cảm thán thay, cuộc đời thoảng qua như chớp mắt, chẳng khác nào bóng câu bay ngang cửa sổ, ngọn lửa xẹt ra khi đánh lửa hay những câu chuyện vụt trôi qua trong cơn mộng mị. (ND)
Từ mấy trăm năm trước, khi được Viêm Đế đưa về Thần Nông sơn, bắt đầu học làm người, hắn vẫn luôn hoang mang lạc lối giữa đa đoan nhân tính, mãi đến lúc này, hắn mới sực hiểu ra mình muốn có thứ gì.
Diệt Ma trận được coi là trận pháp lợi hại nhất của Bàn Cổ, nhưng trừ trận đầu tiên, còn lại đều là đấu tranh nội tâm, tự mình vật lộn giằng co với chính mình, lẽ nào kiếp người cũng là như thế? Để đánh bại Kim Giáp thần cản đường, cần phải có thực lực nhất định, nhưng chướng ngại vật chắn lối thực sự lại chính là bản thân mình, hết thảy vui buồn được mất thật ra đều nằm trong tay mình cả, được cũng do mình, mất cũng do mình.
Xi Vưu không khỏi tự hỏi Diệt Ma trận của Bàn Cổ, rốt cuộc dùng để diệt thứ yêu ma gì? Là ma quái trên thế gian, hay thế gian vốn không có ma quái, mọi thứ đều khởi từ tâm ma?
Từ xưa tới nay, vì tâm cao khí ngạo, vì chút tự ái như có như không giấu tận đáy lòng, hắn nhất mực không chịu thừa nhận rằng mình thua kém Thiếu Hạo, kỳ thực, hắn luôn ghen ghét đố kỵ với Thiếu Hạo, đố kỵ trước phong thái hào hoa, thân phận tôn quý cùng mối duyên trời ban của y với A Hành, sâu thẳm trong lòng hắn từng giờ từng khắc đều lo sợ A Hành sẽ thay lòng, yêu càng nhiều thì nghi kỵ càng sâu, mới tạo thành thảm kịch năm xưa.
Nếu vừa nãy hắn không tin tưởng A Hành thì sẽ xảy ra chuyện gì nhỉ?
Oành oành, ùng ùng!
Tiếng sấm nổ vang trời truyền đến khiến Xi Vưu chẳng còn lòng dạ nào suy ngẫm hàm nghĩa Diệt Ma trận của Bàn Cổ nữa, hắn lập tức chấn chỉnh lại tinh thần, rảo bước tiến vào tượng thứ tư của Diệt Ma trận – Diệt kính.
Hạt châu xanh biếc đang nằm trên phiến đá, bị xích Long Cốt chằng chịt khóa chặt, mây mù đen kịt tụ lại dày đặc phía trên, rung lên theo từng luồng sấm sét nhoáng nhoàng, như có thể giáng xuống bất cứ lúc nào.
Xi Vưu chạy như bay đến, “A Hành, ta đến rồi đây!” Y phục trên người hắn rách tơi tả, thương tích đầy mình nhưng nét mặt và đáy lòng lại rộn lên vui sướng.
Sấm chớp đột nhiên nổi lên ùng oàng như vô số rắn vàng uốn éo trên không, cả nền trời đen kịt lấp loáng ánh chớp, thoắt tối thoắt sáng.
Vô số rắn vàng từ bốn phương tám hướng đổ xô lại, hợp thành một con rắn khổng lồ vẫn không ngừng lớn mãi, chỉ lát sau đã hóa thành một con mãng xà. Ngũ lôi giáng xuống đánh ầm một tiếng, ánh chớp loang loáng, hệt như một con mãng xà vàng rực bổ xuống hạt châu.
Xi Vưu vội xông tới lấy thân mình che cho hạt châu.
Đoàng!
Sấm sét giáng trúng lưng Xi Vưu, toàn thân hắn không ngừng co giật, rũ rượi nằm đè lên hạt châu.
Trước cơn thịnh nộ lôi đình của đất trời, dù là kẻ thần lực cao cường nhất Thần tộc cũng không sao chịu nổi, chỉ trong nháy mắt, Xi Vưu đã bị đánh đến nỗi khí tức rối loạn, linh lực tan tác.
Mây dông trên trời đang ngưng tụ lại, chuẩn bị cho đòn sấm sét nặng nề hơn.
Xi Vưu toan di chuyển hạt châu, nhưng hạt châu trước sau vẫn dính chặt lấy phiến đá như thể mọc lên từ đó, chẳng hề nhúc nhích mảy may.
Cuồng phong rít gào, mưa táp xối xả, Xi Vưu ngẩng đầu nhìn trời, thấy mây dông đen kịt lại đè xuống hệt một trái núi, sấm chớp loang loáng tựa từng lưỡi gươm sắc bén từ từ tụ lại, hợp thành một con rồng vàng rực chói lòa, khiến bốn bề sáng trưng như ban ngày.
Nếu Xi Vưu còn chút lý trí, hắn hẳn đã nhận ra mình không thể đỡ nổi đòn này. Tuy thiên lôi giáng xuống quả là đáng sợ, nhưng chỉ tấn công vào ma châu, ví như hắn vứt hạt châu lại mà bỏ chạy, ắt vẫn còn kịp giữ mạng.
Có điều Xi Vưu chẳng những không hề sợ sệt, mà còn cười sằng sặc, rút trường đao rạch lên hai tay, để linh huyết từ thân thể mình chảy sang hạt châu rồi ngẩng nhìn trời cao giọng chửi: “Nàng hút máu thì ta vui vẻ dâng máu, nàng hút linh lực, ta cũng vui vẻ dâng linh lực, việc gì đến ngươi? Ai khiến ngươi chõ mõm vào? Ngươi dám hủy diệt nàng, ta sẽ hủy diệt ngươi!”
Thiên lôi uỳnh một tiếng bổ xuống, từng đạo sét đều nhằm vào hạt châu, Xi Vưu tóc tai rũ rượi, hai mắt đỏ ngầu, vung trường đao chém xuống con rồng vàng rực đang nhào tới, liều mạng đối chọi cả với trời, “Thiên đạo của ngươi quả là vô lý, ngu muội tối tăm, ta phải hủy diệt thứ thiên đạo này!”
Mây dông ập xuống như núi, sấm sét bổ xuống như rồng, Xi Vưu hộc ra mấy búng máu, chẳng nể tan xương nát thịt, hồn phách tiêu tan, linh lực tản mác, gắng gượng ngưng tụ một nguồn linh lực vượt quá sứa chịu đựng của cơ thể, lưỡi đao nở phình ra quét ngang trời đất, mây dông sấm sét đều bị dồn ép, tốc độ chậm hẳn lại.
Nhưng đại thể khó cưỡng, mây dông như núi lở, sấm sét tựa rồng thần vẫn từ từ ập xuống Xi Vưu, khiến ánh đao đỏ rực dần thu nhỏ lại, Xi Vưu lảo đảo chực ngã, ngũ quan ứa máu, máu loang đầy cả mặt, tóc tai phấp phới, trông chẳng khác nào ác ma.
“Ta nói cho ngươi hay, Bàn Cổ tạo ra được ngươi thì ta cũng hủy diệt được ngươi!” Xi Vưu gầm lên với trời cao, dốc toàn lực vung đao chém lên trời, cắt đôi sấm sét sáng lòa như rồng thần đó. Oành một tiếng, mây dông tan biến, ánh sáng rợp trời, vô số tia sét lấp loáng tựa sao băng từ người hắn bắn ra. Thân thể Xi Vưu bị đánh thủng lỗ chỗ, máu tuôn ra như suối, nhỏ xuống hạt châu, đem theo cả linh khí cuồn cuộn trong trời đất.
Hút đủ máu tươi và linh lực, hạt châu bỗng đỏ rực lên, uỳnh một tiếng, ánh đỏ phụt ra xông thẳng tới chín tầng mây, đất trời lúc thì vàng rực, khi lại đỏ ối, lấp loáng chói cả mắt, sông núi cũng ngả nghiêng như sắp đến ngày tận thế.
Thiếu Hạo đến chậm hơn Xi Vưu một bước, khi y tiến vào Tử kính của Diệt Ma trận, cũng gặp phải hai mươi tư Kim Giáp thần.
Giao đấu một hồi với Kim Giáp thần, cũng như Xi Vưu, y mau chóng phát hiện ra khuyết điểm của bọn chúng, tuy đánh bại chúng không khó nhưng muốn đánh bại ngay tức khắc lại chẳng dễ dàng gì, mà để cứu được A Hành, phải càng nhanh càng tốt.
Thiếu Hạo ngẫm nghĩ rồi thình lình biến thành một vị Kim Giáp thần. Nước là cội nguồn của vạn vật, có thể tùy ý thay đổi hình dạng, mà y lại tu luyện thủy linh, đương nhiên thừa sức mô phỏng vạn vật, Thiếu Hạo thần lực cao cường, Kim Giáp thần do y biến ra giống y như đúc, dù Hoàng Đế đích thân tới cũng không phân biệt được.
Hai mươi tư Kim Giáp thần ngơ ngác nhìn nhau, quả nhiên thấy dôi ra thêm một người. Đột nhiên một tên Kim Giáp thần hung tợn vung tay đánh một tên khác, tên kia trả đòn, lại đánh trúng một tên khác. Chẳng bao lâu đám Kim Giáp thần đã quấn lấy nhau đánh đấm loạn xà ngầu, mù mịt cả đất trời, cát bay đá chạy, mỗi đòn giáng xuống đều nặng tựa ngàn cân, trận pháp trở bỗng chốc rối tung.
Đợi đến khi sóng yên gió lặng, đám Kim Giáp thần kẻ cụt tay người mất chân, hết thảy đều tan thành xác pháo, chỉ còn duy nhất một tên đứng giữa bãi chiến trường, chẳng sây sất mảy may, đột nhiên hắn mỉm cười, biến trở lại thành Thiếu Hạo.
Nhìn đống đá ngổn ngang dưới chân, Thiếu Hạo lắc đầu: “Dù sao cũng không phải còn người có máu có thịt, hèn chi chẳng linh hoạt cơ biến gì cả!”
Nói rồi y tiếp tục bước, tiến vào tượng thứ hai của Diệt Ma trận – Sinh kính.
Gió tuyết vần vũ đầy trời, tiêu điều giá buốt. Thiếu Hạo vừa đi vừa không ngừng cảnh giác, tâm trí cứ miên man nghĩ ngợi, tại sao tượng này lại gọi là Sinh kính nhỉ?
Để chống chọi giá rét, y đã phải dốc hết thần lực. Nhìn gió tuyết mịt mù phía trước, chẳng trông thấy đường, Thiếu Hạo chỉ biết hồi tưởng lại tết thả đèn của Cao Tân, nhớ tới những ngọn đèn lung linh muôn màu, ấm áp mà mỹ lệ, lấy đó làm động lực cất bước.
Mỗi ngọn đèn đều do một tay ai đó thắp lên nhằm sưởi ấm cho một người nào đó, y phải bảo vệ những ngọn đèn đó, giữ gìn hơi ấm cho họ, nhưng còn y thì sao? Có ai từng thắp đèn vì y? Có ai bằng lòng đem lại hơi ấm cho y?
Trời mỗi lúc một thêm lạnh buốt, nhưng y tìm mãi chẳng thấy ngọn đèn nào thắp lên vì mình, giữa cuồng phong bão tuyết, tất cả đèn đuốc đều dần dần lụi tắt, bóng đêm và giá rét ập đến, buộc y nếm trải hết thảy tàn khốc và lạnh lẽo trong đời thêm lần nữa.
Lúc mẹ y qua đời, phụ vương từng hứa sẽ chăm lo cho y thật tốt, nhưng từ khi Thường Hy bộ đưa hai chị em như ngọc như ngà tiến cung, phụ vương liền quên bẵng mẹ y, cũng quên luôn lời hứa với bà. Phụ vương càng có thêm nhiều con trai, y càng hiếm khi được gặp Người, hằng ngày y đều phập phồng chờ mong được gặp phụ vương, nhưng đợi hoài đợi mãi, sau cùng chỉ thấy Đại Thường Hy thị, mẹ ruột Yến Long mỉm cười bước ra thông báo: phụ vương chơi với Yến Long và Trung Dung đã mệt, hiện giờ đang nghỉ ngơi, bảo y cứ về trước. Thỉnh thoảng, lúc gọi phụ vương, y đột nhiên lo lắng, chẳng hiểu phụ vương có nhớ ra mình không? Vú già vẫn chăm sóc y từ nhỏ cũng phụng mệnh hai chị em Thường Hy thị hạ độc y, tuy không phải độc dược chết người nhưng dần dần sẽ làm tổn thương tới trí lực, khiến đầu óc y ngày càng sút kém, càng lúc càng ngốc nghếch, tới chừng nào không thể tranh đoạt vương vị với Yến long được nữa. Lòng đầy uất ức, y tưởng phụ vương sẽ làm chủ cho mình, bèn thật thà kể hết với Người, nào ngờ Thường Hy thị làm mình làm mẩy, khóc lóc đòi tự vẫn khiến phụ vương quay quắt lại khiển trách y, mắng y mới mấy tuổi ranh mà đã nham hiểm độc ác, rắp tâm vu vạ cho mẫu phi. Bấy giờ y mới vỡ lẽ, tòa cung điện nơi y sinh ra và lớn lên, từ lâu đã chẳng còn chỗ cho y nữa. Từ đó trở đi, y buộc lòng phiêu bạt giữa nhân gian, gắng gạn lọc lấy chút hơi ấm trong ngọn lửa phừng phừng của lò rèn. Y luôn nỗ lực hoàn thành tốt mọi chuyện, muốn làm một vị vương tử tốt trong lòng dân chúng, làm một đứa con trai ngoan của phụ vương, nhưng những cố gắng của y chỉ đổi lại được thái độ nghi kỵ ngày càng tăng của Người…
Sự lạnh lẽo vô tình trên Ngũ Thần sơn khiến y nghẹt thở.
Lạnh quá đi mất! Trên người, trong lòng đều lạnh ngắt, chẳng tìm nổi chút hơi ấm!
Tại sao không ai thắp cho y một ngọn đèn?
Đột nhiên y trông thấy mẹ mình đứng phía cuối con đường tăm tối, tươi cười vẫy tay gọi y, như thể nói: lại đây con, sà vào lòng mẹ ngủ một giấc đi. Chỉ đợi có vậy, y mỉm cười tiến lại, đi về phía bóng đêm thăm thẳm, về phía giấc ngủ vĩnh hằng.
Từng bước từng bước, khi cả thân hình sắp chìm sâu vào bóng đêm, y chợt thoáng thấy một bóng người quen quen, hơi rượu thơm nức xộc lên cổ họng, chút hơi ấm nhỏ nhoi dần dần nhen nhóm trong lòng.
Y ngỡ ngàng ngoảnh lại, chỉ thấy gió tuyết mịt mù, đất trời tối đen như mực, nhưng dường như xa xa thấp thoáng ánh lửa, có người đang nhen lửa, uống rượu, đợi y.
Thiếu Hạo ngơ ngác nhìn mẹ mình đang đứng cuối con đường tăm tối, rồi lại nhìn sang đốm lửa lập lòe kia, phân vân chẳng biết nên đi về hướng nào.
Chợt y nghe thấy tiếng chân người, bóng một thiếu nữ áo xanh mờ mờ ảo ảo vụt qua, nắm lấy tay y, kéo y đi về phía ánh lửa lập lòe.
Chẳng hiểu sao lòng y bỗng thấy ấm áp lạ lùng, hơn nữa còn dâng lên một niềm kiên quyết, nhất định không được từ bỏ, không thể chết tại Ngu uyên!
Ngu uyên? Ngu uyên là đâu nhỉ?
Y chẳng rõ nữa, chỉ biết chật vật lê bước về phía ngọn lửa lập lòe xa tít đằng kia, càng tiến gần đến ngọn lửa, thân thể y càng lạnh buốt, như thể cả người đã đông cứng thành băng, mấy lần toan dừng lại nhưng hơi rượu thơm lừng cứ vướng vất bên cánh mũi, trong cổ họng, nữ tử áo xanh vẫn nắm chặt tay y, nhen lên chút hơi ấm trong lòng y.
Cuối cùng y cũng trông rõ gã thiếu niên ngồi bên đống lửa cười tươi tắn, còn rạng ngời lóa mắt hơn cả ánh mặt trời chói chang mùa hạ, bên tai Thiếu Hạo chợt nghe sang sảng giọng gã: “Ta họ Hiên Viên.” Đột nhiên, y sực nhớ ra gã thiếu niên có nụ cười khiến người ta phát ghen tỵ ấy, là Thanh Dương! Còn thiếu nữ kéo y đến đây chính là A Hành. A Hành nghiêng đầu cười rồi biến mất, bóng Thanh Dương cũng tan đi trong màn tuyết trắng, chỉ còn hơi ấm ngập đầy lòng y.
Bóng đêm đen kịt trước mặt dần tan biến, vầng dương bắt đầu ló dạng.
Thiếu Hạo khắp mình đầy băng tuyết, đứng ngây như phỗng, lát sau mới từ từ bóc từng khối băng trên người ra, ngẩng đầu nhìn thái dương.
Thì ra đây chính là Sinh kính!
Y vừa ra đời đã mất mẹ, vú già nuôi y khôn lớn lại ngày ngày hạ độc y, các đệ đệ luôn rắp tâm tìm cách hại chết y, y coi phụ vương là người cha thân yêu nhất, nhưng ông lại không coi y là đứa con thân thiết nhất… Dường như trời cao luôn tàn nhẫn ngăn cách y với mọi người, nhưng giờ đây y chợt nhận ra, ông trời đã ban cho y ánh lửa ấm áp mà y luôn khao khát.
Thanh Dương, ta nhất định sẽ cứu được A Hành!
Thiếu Hạo chạy như bay về phia tượng thứ ba của Diệt Ma trận – Ảo kính.
Núi non trùng điệp, đường sá quanh co, bôn ba một hồi, y mới trông thấy hạt châu tít trên vách núi, y đánh bại mấy con yêu thú chặn đường, giao hạt châu cho Thanh Dương rồi cùng nhau nghĩ cách cứu sống A Hành.
Phụ vương cuối cùng cũng nhận ra y thích hợp làm người thừa kế hơn Yến Long, bèn truyền vương vị cho y.
Rốt cuộc y cũng hoàn thành giấc mộng từ thuở nhỏ của mình, trở thành Tuấn Đế, bảo vệ cho từng ngọn đèn lung linh trên sông nước Cao Tân. Y dốc lòng lo cho dân cho nước, xây dựng Cao Tân ngày một thêm tươi đẹp phồn vinh.
Hoàng Đế phát động chiến tranh, đưa đại binh tiến về phía Đông, sau khi đánh bại Thần Nông, cũng hủy luôn giao ước với Cao Tân. Y bèn dẫn binh giao chiến với Hoàng Đế.
Thiên quân dấy động, vạn mã tung vó, y và Thanh Dương gặp nhau trên chiến trường, đành phải động tới binh đao.
Ánh đao bóng kiếm, máu chảy thành sông, như bao lần đánh lộn trước đây, họ bất phân thắng bại. Sau cùng y đứng đối diện với Thanh Dương, thắng thua lần này phụ thuộc vào chính bản thân bọn họ. Có điều lần này không chỉ là tỷ thí để phân định thắng thua, mà là quyết đấu để tranh sinh tử.
Hai người đánh nhau suốt ba ngày ba đêm, thương tích đầy mình, nếu còn dẳng dai nữa, ắt trong quân sẽ sinh biến.
Thiếu Hạo ngưng tụ linh lực toàn thân vào mũi kiếm, đâm thẳng về phía Thanh Dương, Thanh Dương cũng vung kiếm quét qua y.
Y thật sự phải lấy mạng Thanh Dương sao?
Y có thể do dự được ư? Chỉ cần thoáng do dự, y sẽ chết dưới kiếm của Thanh Dương!
Không phải Thanh Dương chết, thì là y chết!
Tròng mắt Thiếu Hạo co rút lại nhưng ngọn kiếm vẫn lấp loáng lạnh người, bổ xuống Thanh Dương.
Đột nhiên, đoàng một tiếng, ánh hồng phủ ngập bầu trời, xua tan tất cả.
Thiếu Hạo đầu bù tóc rối, máu vấy đầy áo, nắm chặt kiếm đâm tới, nhưng trước mặt chẳng thấy một ai, Y sững sờ nhìn thanh kiếm trong tay mình, ngơ ngác không hiểu một kiếm vừa rồi đã chém xuống chưa? Nếu không chém xuống, Thanh Dương có giết y không? Nếu đã chém rồi, vậy…
Thiếu Hạo run lẩy bẩy, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, y chẳng dám nghĩ tiếp nữa, chỉ biết mừng thầm vì tất cả là ảo ảnh.
Nhưng có thật đó chỉ là ảo ảnh không?
Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời cao, mãi một lúc lâu, ánh sáng chói lòa kia mới dần tan biến, mưa tạnh gió ngừng, trận pháp đã bị phá.
Hai người hôn mê bất tỉnh nằm dài trên phiến đá, một người là Xi Vưu, dù ngất lịm vẫn dang tay che chở cho kẻ bên dưới, kẻ kia cả người không một mảnh vải, cuộn tròn lại như đứa trẻ sơ sinh trong lòng Xi Vưu, chính là A Hành.
Thấy A Hành trần truồng, Thiếu Hạo vội quay ngoắt đi, cởi phăng áo ngoài, gọi Xương Phó và Chu Du đứng chờ bên ngoài vào bế nàng ra.
Phát hiện A Hành đang ôm chặt một chú chim, Xương Phó ngạc nhiên hỏi: “Sao lại có con chim ở đây thế?”
Thiếu Hạo không ngoảnh lại, thuận miệng đáp: “Hẳn là con Lang điểu đã chết theo A Hành đấy mà.”
Xương Phó nghe nói chợt sinh lòng kính trọng, bèn nhẹ nhàng gỡ Lang điểu ra khỏi tay A Hành.
Xương Phó và Chu Du vừa mặc xong y phục cho A Hành đã thấy Hoàng Đế xuất hiện, vẻ mặt tái xanh, thần tình nhớn nhác như không tin nổi có người phá được Diệt Ma trận. Bất ngờ bắt gặp Thiếu Hạo, Hoàng Đế sững người hỏi: “Sao con lại ở đây?”
Thiếu Hạo cung kính hành lễ: “Nghe nói A Hành đã sống lại. con tới đón nàng về.”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, vẻ mặt dần dịu xuống, ông bước lại vén tay áo nàng lên, tìm vết sẹo nơi cánh tay. Đó là vết thương hồi nhỏ của A Hành, để phạt tội nàng ham chơi, Hoàng Đế đã hạ lệnh khắc sâu vết sẹo đó lên người nàng, mãi mãi không thể tẩy xóa. Xác nhận người này đích thực là A Hành, nghĩ lại mối liên minh với Cao Tân lại được củng cố, Hoàng Đế đổi giận làm vui, tươi cười bảo Xương Phó: “Con mau đưa Hành nhi về Triêu Vân phong để mẫu hậu gặp mặt, hẳn bà ấy sẽ khỏe lại ngay.”
Xương Phó băn khoăn nhìn Xi Vưu đang hôn mê rồi lại phân vân nhìn sang Thiếu Hạo, thấy Thiếu Hạo gật đầu tỏ ý mọi chuyện đã có y lo liệu, nàng mới yên tâm ôm A Hành bay về phía Triêu Vân điện.
Hoàng Đế liếc nhìn Xi Vưu đang trọng thương ngất lịm, ánh mắt lóe lên như đã có sẵn tính toán trong lòng. Thấy vậy, Thiếu Hạo ung dung bước tới chắn trước mặt Xi Vưu, mỉm cười hành lễ với Hoàng Đế, “Vừa nãy trên đường tới đây con thấy đại quân Thần Nông đã đóng ngoài biên ải như đang đợi ai đó, còn loáng thoáng nghe thấy mấy tên vô lại Si Mỵ Võng Lương bàn tán cái gì mà nếu không thấy quay về thì cứ xông vào là xong.” Mọi người đều biết thuộc hạ của Xi Vưu toàn những kẻ xuất thân thảo mãng, ngỗ ngược khó thuần, đến Du Võng chúng cũng chẳng coi ra gì, chỉ thần phục một mình Xi Vưu.
Hoàng Đế cười nhạt hỏi: “Con định nán lại đây mấy ngày, hay quay về Cao Tân ngay?”
Thiếu Hạo khom lưng hành lễ: “Con định ở lại mấy hôm.”
Hoàng Đế gật đầu vẻ hài lòng: “Chuyện ở đây đừng tiết lộ với kẻ khác, bất lợi cho A Hành đã đành, còn bất lợi cả cho con nữa.”
Thiếu Hạo lễ phép: “Con hiểu.”
Hoàng Đế vừa đi khỏi, Thiếu Hạo liền sai Chu Du đỡ Xi Vưu dậy, kiểm tra thương thế một lượt, thấy hắn bị thương không nhẹ, lại sợ Hoàng Đế âm thầm giở thủ đoạn, y quyết định tự mình đi một chuyến, “Chúng ta đưa Xi Vưu về Thần Nông trước đã.”
Chu Du thắc mắc: “Điện hạ gặp Si Mỵ Võng Lượng khi nào thế? Tôi cùng điện hạ tới đây, sao tôi chẳng thấy gì cả? Nghe nói bốn người bọn họ là huynh đệ sinh tử, dung mạo giống hệt nhau, tôi luôn muốn gặp mặt xem thử!”
Thiếu Hạo hỏi ngược lại: “Hằng ngày điện hạ nhà ngươi dạy ngươi thế nào?”
“Hỏi ít, làm nhiều.”
Nghe vậy Thiếu Hạo nhìn Chu Du cười không đáp. Bất giác, Chu Du cảm thấy tuy Thiếu Hạo tươi cười hòa nhã, nhưng ánh mắt sắc lạnh chẳng kém Thanh Dương, đành nuốt hết bao thắc mắc vào lòng.
Một tháng sau A Hành mới tỉnh lại, nhưng người tuy tỉnh mà thần trí vẫn ở đâu đâu, cả ngày chỉ ngây người, chẳng nói chẳng rắng, hệt như một pho tượng vô tri vô giác.
Trước tình cảnh đó, Thanh Dương vẫn thờ ơ lạnh lùng, chẳng rõ trong lòng y nghĩ gì, chỉ thấy y sai Chu Du đi khắp nơi kiếm linh đan diệu dược, tìm đủ cách điều dưỡng cho A Hành.
Trái với Thanh Dương, Xương Ý ngày ngày kề cận bên A Hành, dắt nàng đi khắp mọi nơi mà bọn họ từng chơi đùa hồi nhỏ, hy vọng có thể khơi gợi quá khứ của nàng.
Có điều A Hành một mực làm thinh không nói, cũng chẳng hề để lộ chút sinh khí. Xương Ý vẫn vô cùng kiên nhẫn, nàng làm thinh cả ngày thì y một mình lải nhải cả ngày, kể lể hết mọi chuyện khi xưa cho nàng nghe.
Ngày qua ngày, Xương Ý cứ kiên trì nhẫn lại, còn A Hành vẫn ngây ngô như cũ.
Một hôm A Hành ngồi như tượng gỗ trong sân, cúi đầu đờ đẫn ngắm ngón chân mình, như đang say ngủ, lại tựa hồ trầm tư.
Xương Phó ngồi xuống bên cạnh, nàng cũng chẳng buồn ngẩng lên.
“Lần đầu tiên ta gặp Xương Ý là khi chàng tới Nhược Thủy nhậm chức. Nghe trưởng lão trong tộc thông báo vương tử của Hiên Viên tộc sắp tới, dặn bọn ta không được gây chuyện, ta rất ấm ức, người Nhược Thủy bọn ta tự tại đã quen, cớ gì phải nghe người ta sai khiến? Cuối cùng ta bèn cải trang đi nghênh tiếp gã vương tử đó. Dọc đường, ta hoạnh họe làm nhục Xương Ý vô số lần nhưng chàng chẳng hề tức giận, ngược lại ta dần dần bị cảm hóa bởi tấm lòng và khí phách của chàng. Quen biết chàng từng ấy năm, ta chưa hề thấy chàng giận dữ, lần đầu tiên chứng kiến chàng nổi cơn thịnh nộ là vì muội. Hai trăm năm trước, chàng cùng ta lên đến Thần Nông, chỉ trong một đêm ám sát mười tám viên Thần tướng của chúng, khiến phụ vương nổi giận lôi đình, giam chàng vào Hỏa ngục. Đối với kẻ tu luyện mộc linh, bị giam vào Hỏa ngục chính là cực hình sống không bằng chết, phụ vương nói hễ chàng nhận lỗi sẽ lập tức thả ra, nhưng suốt một năm trời, chàng thà chịu giày vò hành hạ đến nỗi chỉ còn da bọc xương cũng quyết không nhận lỗi, sau cùng phụ vương đành bó tay, vừa mắng mỏ chàng cứng đầu cố chấp, vừa bất lực thả chàng ra…”
Xương Phó cứ thế rủ rỉ chuyện trò, thuật lại những chuyện xoay quanh Xương Ý suốt hai trăm năm qua, y đau buồn ra sao, y oán giận Thanh Dương nhường nào, khi phát hiện ma châu y đã mừng đến thế nào, rồi để cứu A Hành, y và Thanh Dương suýt nữa đã cạn kiệt linh lực tinh huyết mà chết.
Hoàng Đế và Luy Tổ đã có mật chỉ, Thanh Dương và Xương Ý lại kín miệng như bưng nên chẳng mấy ai biết tới chuyện ma châu, ngay cả A Hành cũng mãi đến giờ mới biết, hóa ra nàng khó khăn lắm mới có thể tỉnh lại.
Xương Phó vuốt tóc A Hành, “Tiểu muội à, đối với muội thì chỉ là một giấc ngủ, có lẽ muội còn tiếc nuối sao thức dậy quá mau, khiến nỗi đau trong lòng muội chưa kịp tiêu tan, nhưng đối với Tứ ca muội đã là hai trăm năm rồi đó! Dù muội đã quên hết mọi chuyện trong quá khứ nhưng trái tim muội vẫn là máu thịt, nhất định có thể cảm nhận được những đau buồn của Xương Ý, ta xin muội đấy, đừng làm Tứ ca muội buồn thêm nữa. Đã hai trăm năm rồi ta chưa hề thấy chàng cười, chỉ mình muội mới có thể trả lại cho chàng nụ cười thực sự mà thôi.”
Xương Ý xách một chú cá lại gần, thấy thê tử và muội muội cùng ngồi dưới gốc phượng hoàng hóng mát liền cười hỏi: “Nàng nói gì với tiểu muội thế?”
Xương Phó cười đáp: “Có gì đâu.”
Xương Ý giơ cá lên khoe với A Hành, “Tối nay ăn cá nhé?”
Thấy A Hành vẫn ngây ra như phỗng, chẳng nói chẳng rằng, Xương Ý cũng đã quen, đành tự trả lời: “Ta đưa cá tới nhà bếp rồi quay lại với muội.”
“Dâu lạnh.”
Giọng nói rất khẽ vang lên sau lưng khiến Xương Ý đột ngột quay ngoắt lại, vẻ mặt đầy kích động: “Muội bảo gì cơ?”
A Hành đưa mắt nhìn cây dâu, vẻ mặt vẫn đờ đẫn, chỉ có giọng nói là rành rọt: “Dâu lạnh, muội muốn ăn dâu lạnh.”
Xương Ý mừng rỡ như điên, quăng luôn cả cá đi, gào lên gọi lớn: “Mẫu hậu, mẫu hậu! Đại ca, Đại ca! Mọi người mau ra đây, A Hành đòi ăn dâu lạnh này!”
Luy Tổ và Thanh Dương cuống quýt chạy ra, Xương Ý ngồi xuống bên A Hành dè dặt hỏi, như chưa dám tin rằng nàng đã thật sự tỉnh lại: “Muội nói lại xem, muội thích ăn gì nào?”
Luy Tổ và Thanh Dương đăm đăm nhìn nàng đầy mong đợi, nhưng A Hành chỉ trân trân dán mắt vào cây dâu, khẽ đáp: “Dâu lạnh.”
Nghe nàng nói, Luy Tổ mừng mừng tủi tủi, miệng cười mà nước mắt rưng rưng. Thanh Dương vẫn giữ gương mặt thản nhiên, chẳng nói một lời, chỉ phất tay giáng tuyết, có điều lòng y đang xúc động khôn cùng, linh khí bất ổn, băng tuyết lại hóa ra mưa đá lộp độp đổ xuống, khiến mọi người trở tay không kịp.
Xương Ý một tay che chắn cho Xương Phó, một tay kéo A Hành chạy vào nhà, cười chế giễu: “Đại ca, huynh làm được không thế? Hôm qua đệ vừa kể cho A Hành biết sự lợi hại của huynh, thế mà hôm nay huynh lại làm mất mặt đệ, A Hành chứng kiến có khi chẳng nghĩ là huynh kém, mà sẽ cho rằng đệ huênh hoang khoác lác cũng nên, phải không, tiểu muội?”
Thanh Dương căng thẳng nhìn A Hành, hồi lâu mới thấy nàng mím môi, khẽ gật đầu, y chợt thấy lòng mình ấm lại.
Xương Phó cũng góp chuyện, lắc đầu quầy quậy đùa: “Đại ca thừa sức làm ấy chứ. Nhất định khi nãy Đại ca có mưu tính cao siêu gì đó, chẳng qua chúng ta không nhận ra thôi, đằng sau trận mưa đá này hẳn phải ẩn giấu tâm cơ phi thường.”
Luy Tổ phì cười, cốc cho Xương Phó một cái: “Con bé này chỉ được cái mồm mép, lại đi đôi với Xương Ý cứng đầu cứng cổ, cạy răng không được một câu, đúng là bù trừ cho nhau.”
Xương Phó đỏ mặt ngượng ngùng, vội giấu mặt vào vai A Hành.
Bao cảm xúc chua xót, đắng cay, ấm áp đồng loạt trào lên trong lòng Thanh Dương, y gắng gượng trấn định lại tinh thần, từ từ mới biến được mưa đá thành mưa tuyết.
“Nào, mình đi ăn dâu lạnh.” Xương Phó dắt tay A Hành chạy vào rừng dâu, còn vui vẻ kéo nàng quay một vòng. A Hành cũng vui lây theo Xương Phó, dần he hé nụ cười.
Xương Phó không quên ngoảnh lại gọi Thanh Dương và Xương Ý: “Đại ca, Xương Ý, cùng đi hái dâu lạnh nhé!”
Xương Ý đùa bỡn ẩy Thanh Dương chạy lên trước, Thanh Dương tuy có phần miễn cưỡng, nhưng vẫn không giấu được nét tươi cười nơi khóe mắt.
Luy Tổ ngồi dưới hiên nhà, ngắm nhìn các con nô giỡn dưới màn mưa tuyết, môi cười tươi tắn mà mắt rưng rưng lệ.
Sau khi chịu mở miệng nói chuyện, A Hành cũng dần dần nhớ lại những chuyện xưa kia, có điều ký ức của nàng hầu hết đều lung tung lộn xộn, cái nhớ cái quên, ví dụ như hỏi những chuyện thuở nhỏ, nàng có thể kể ra vanh vách, nhưng hỏi tới chuyện khi ở Cao Tân, nàng lại quên sạch.
Thầy thuốc nói, có thể những hồi ức đó quá đỗi bi thảm nên thần thức của nàng sau khi chịu tổn thương đã tự động loại bỏ chúng, chỉ còn ghi nhớ những chuyện vui vẻ mà thôi.
Luy Tổ chẳng hề để tâm chuyện đó, Xương Ý thì vô cùng mừng rỡ, lấy làm may mắn. Chỉ mình Thanh Dương ngấm ngầm lo lắng, dẫu sao trên đời cũng có những chuyện không thể cứ lãng quên là né tránh được.
Hoàng Đế giấu kín tin A Hành tái sinh, người đời chỉ biết Đại vương tử phi của Cao Tân hơi khó ở, được Thiên Hạo đưa về Triêu Vân phong tĩnh dưỡng chứ chẳng rõ đầu đuôi câu chuyện.
Xi Vưu thân mang trọng thương, đi lại cũng khó khăn, không cách nào lên tới Triêu Vân phong được, may mà có Xương Phó lén lút đưa tin, báo cho hắn biết sức khỏe A Hành đã khá dần lên, khuyên hắn đừng quá lo lắng.
Vừa xuống giường đi lại được, Xi Vưu lập tức tới Triêu Vân phong cầu kiến, nhưng Luy Tổ và Xương Ý không bằng lòng cho hắn gặp A Hành.
Thanh Dương chỉ lạnh lùng nói: “A Hành không phải trẻ con, gặp hay không gặp cứ để nó quyết định.” Nói rồi y liếc Xương Ý, “Năm xưa khi còn là một gã vô danh tiểu tốt, Xi Vưu đã dám đỡ một kiếm của ta, lẻn lên Triêu Vân, nếu bây giờ hắn muốn gặp A Hành thì ai mà cản được?”
Nhớ lại hôm tới tìm Xi Vưu thông báo rằng A Hành có lẽ vẫn còn sống, hắn đã mững mừng tủi tủi, lập tức vứt bỏ mọi thứ, bất chấp sinh mạng tới cứu tiểu muội, Xương Phó quyết định đứng về phía Thanh Dương. Nàng siết tay Xương Ý, dịu giọng: “Để tiểu muội tự quyết định đi!”
Cung nữ dẫn Xi Vưu băng qua tiền điện, chỉ cho hắn con đường mòn quanh co, “Tướng quân cứ đi theo con đường này sẽ tới, Vương cơ đang đợi ngài.”
Xi Vưu guồng chân chạy như bay, chỉ hận không thể trông thấy A Hành ngay lập tức.
Hai bên đường trồng đầy những gốc phượng hoàng cao ngất, hoa nở đỏ rực trên cành, đong đưa đón gió, dưới đất cũng rợp một lớp hoa tàn đỏ ối. A Hành vận áo xanh đứng dưới bóng cây âm u, khiến dáng người nàng càng thêm phần mong manh yếu đuối.
Thoạt trông thấy A Hành, Xi Vưu chợt khựng lại, tim đập như trống làng, đắng cay và mừng rỡ đan xen trong lòng, tương tư đằng đẵng suốt hai trăm năm, vậy mà hôm nay gặp gỡ bỗng hóa ra gần quê[4] mà nơm nớp.
[4] Nguyên văn: ‘cận hương tình khiếp’, chỉ nỗi lòng của kẻ xa quê lâu ngày nay mới trở về, càng gần tới quê nhà lòng dạ càng thấp thỏm lo âu, chỉ sợ ở quê đã xảy ra chuyện gì đó không may, vật đổi sao dời. (ND)
Hắn khẽ khàng lại gần, hồi lâu mới dám mở miệng dịu dàng gọi một tiếng “A Hành”, như sợ chỉ hơi sơ sẩy, giấc mộng đẹp này sẽ tan đi mất.
A Hành khoan thai quay lại, trông thấy một nam tử áo đỏ phía sau, giữa cả trời hoa rụng tơi bời, vẻ mặt hắn mừng mừng tủi tủi, cặp mắt đen láy rực lên niềm xót xa cùng vui sướng.
Nàng gật đầu cười, “Ta A Hành đây, ngươi là Xi Vưu của Thần Nông ư?”
Vừa nghe được nửa câu đầu, đôi mắt Xi Vưu đã sáng lên mừng rỡ, niềm vui chân thành toát ra từ tận đáy lòng hắn khiến A Hành cũng cảm động lây, tim đập thình thịch. Nhưng nghe nốt nửa câu sau, ánh mắt hắn liền tối sầm lại, đau đớn trào lên trong mắt, vô duyên vô cớ, ruột gan nàng bỗng quặn thắt như bị ai cào xé.
A Hành lộ vẻ áy náy: “Ta vừa qua cơn bệnh nặng, quên mất rất nhiều chuyện xưa kia, nghe Đại ca nói trước đây chúng ta từng quen nhau, nhưng ta thực không nhớ ra ngươi!”
Xi Vưu không sao tin nổi, thiếu nữ áo xanh trước mắt giống hệt A Hành trong kí ức của hắn, cũng chính là người con gái hắn tương tư suốt hai trăm năm, nguyện từ bỏ mọi thứ để đối lấy nàng, vậy mà hai trăm năm sau gặp lại đã thành người dưng xa lạ, bao ân oán dây dưa thuở trước dường như chưa từng xảy ra.
Thà rằng nàng căm hận hắn, còn hơn là lãng quên hắn!
“A Hành, ta là Xi Vưu, là…” Hắn là gì của nàng đây? Xi Vưu chợt khựng lại. Hắn chẳng rõ trong lòng nàng mình là gì nữa. Hắn vội hốt hoảng kể lại mọi chuyện xưa kia giữa hai người, lời hứa dưới cội hoa đào, ân ái triền miên giữa nhà sàn…
A Hành đỏ bừng mặt quát: “Đừng nói nữa! Ta biết cả rồi, Đại ca kể với ta, nói ta… nói ta và ngươi… là tình nhân.” Nàng cắn môi, “Đại ca nói ngươi và Chúc Dung đã ép ta rơi xuống Ngu uyên, có phải không?”
“Nhìn bề ngoài thì là lỗi của Chúc Dung, nhưng thực ra không liên quan tới hắn, là do ta sai.”
“Nhưng Đại ca cũng nói ngươi bất chấp tính mạng cứu sống ta.”
Xi Vưu lặng yên, bồn chồn nhìn nàng.
A Hành mỉm cười: “Ngươi hại chết ta, rồi lại cứu sống ta, chúng ta coi như dứt điểm, từ nay không ai nợ ai, được chứ?”
Xi Vưu nghe như sét đánh ngang tai, lòng quặn lên đau buốt, hắn thê thiết nhìn A Hành, không sao tin nổi nàng lại thốt ra những lời lạnh lẽo vô tình nhường ấy.
A Hành cười: “Có lẽ ngươi và A Hành khi trước rất hạnh phúc, nhưng ta không phải cô ấy, những chuyện giữa ngươi và cô ấy đối với ta chỉ như chuyện của một người xa lạ thôi, ta không muốn ôm nỗi đau của cô ấy mà sống. Trời cao đã cho ta cơ hội tái sinh, ta muốn bắt đầu lại từ đầu.”
Nói rồi nàng hành lễ với Xi Vưu, “Dù sao ta cũng là gái có chồng, ta và Thiếu Hạo lại không phải thường dân, hôn nhân của chúng ta còn liên quan tới quốc thể, ngài thân là Đại tướng quân Thần Nông quốc, hẳn có thể hiểu cho cái khó của ta. Sau này mong Tướng quân hãy coi ta như người dưng nước lã.” Đoạn nàng giơ tay tiễn khách, “Đại tướng quân, mời ngài về cho!”
“A Hành!” Lòng nghẹn ứ bi thương và khao khát, Xi Vưu dang tay ra như khẩn cầu, mong được ôm lấy nàng lần nữa.
A Hành phất tay áo, lập tức ngọn lửa bùng lên tận trời cao, ngăn cách nàng và Xi Vưu.
A Hành lùi lại mấy bước, vẻ không vui: “Dù trước đây chúng ta từng quen biết, nhưng ta đã nói rõ ràng rồi, xin Tướng quân tự trọng.”
Bên kia màn lửa phừng phừng, Xi Vưu bật cười thảm thiết: “Nàng quên nhưng ta vẫn ghi tâm khắc cốt.”
A Hành cau mày bực bội: “Phụ vương nói hôm nay Thiếu Hạo sẽ tới Triêu Vân phong đón ta về Cao Tân, ta phải về thu dọn hành lý, xin Tướng quân cứ tự nhiên!” Nói rồi nàng giũ áo đi thẳng.
Xi Vưu khao khát được tận tay ôm lấy A Hành, linh lực của hắn cũng theo ý niệm trỗi lên, biến ra mấy sợi dây leo vươn về phía nàng. Thấy vậy, A Hành hốt hoảng lùi lại, thét lên thất thanh: “Ngươi định làm gì?”
Dáng vẻ hoảng hốt của nàng vẫn y hệt hai trăm năm về trước, Xi Vưu nhìn mà tê tái cõi lòng, linh lực tiêu tan cả, mấy sợi dây leo cũng biến mất.
A Hành cuống quýt bỏ chạy, thoáng cái đã mất dạng, để lại Xi Vưu hồn xiêu phách lạc đứng ngây ra dưới gốc phượng hoàng.
Nàng đã quên, nàng quả thực đã quên rồi!
Xi Vưu chỉ thấy trước mắt tối sầm lại, hết thảy đều biến sắc.
A Hành quả thực đã quên hắn!
Hai ả cung nữ lại gần cúi người hành lễ, rồi khẽ khàng cất tiếng: “Tướng quân, Đại điện hạ sai chúng tôi tiễn ngài xuống núi!”
Chiều hôm đó, Thiếu Hạo vừa tới Triêu Vân phong, Thanh Dương liền sai cung nữ tới bẩm với A Hành.
Thấy A Hành hết thay đồ lại kiểm tra hành lý, lề mề mãi không ra, Luy Tổ cười, khẽ đẩy vai nàng: “Sáng mai mới về kia mà, đâu phải về ngay đâu, con lo gì chứ?”
A Hành bước ra khỏi cửa liền trông thấy Thanh Dương, Thiếu Hạo, Xương Ý và Xương Phó đều đang ngồi trên bãi cỏ, vừa uống rượu vừa ngắm hoàng hôn, chốc chốc lại rộ lên một trận cười, chẳng hiểu họ nói chuyện gì. Ánh ta dương rọi lên người bọn họ một màu đỏ ối, toát lên vẻ ấm áp khôn tả.
A Hành lặng lẽ ngắm nhìn hồi lâu rồi mỉm cười chạy lại: “Đại ca, Tứ ca, Tứ tẩu.”
Mọi người nhất loạt ngoảnh lại, Thiếu Hạo lập tức đứng dậy, trông thấy A Hành, y bỗng hơi hồi hộp.
Thanh Dương giới thiệu với nàng: “Đây chính là Thiếu Hạo, phu quân của muội, y tới đón muội về Cao Tân đó.”
A Hành bình thản hành lễ, chỉ nghe Thiếu Hạo hỏi: “Nghe Thanh Dương nói nàng đã quên những chuyện khi xưa?”
“Vâng, có những chuyện thiếp vẫn nhớ, nhưng có những việc lại quên khuấy mất.”
“Nàng còn nhớ ta không?”
A Hành hổ thẹn lắc đầu: “Thiếp chỉ nhớ mẹ và các anh thôi.”
Thiếu Hạo tỏ vẻ cảm thông: “Đó hẳn là những ký ức vui vẻ nhất của nàng, đương nhiên sẽ nhớ kỹ.”
Cả hai đều gượng gạo làm thinh, chẳng biết phải nói gì thêm nữa. Thấy vậy Thanh Dương liền xách hồ rượu bỏ đi, Xương Phó len lén giật tay áo Xương Ý rồi cũng lặng đi nốt, để hai người ở lại.
Thiếu Hạo hỏi: “Nàng muốn đi dạo một lát không?”
A Hành gật đầu, hai người cùng sánh vai, vừa đi Thiếu Hạo vừa thủ thỉ kể lại chuyện xưa, họ đã gặp nhau lần đầu ở Ngọc sơn ra sao, nàng từng sống ở Cao Tân thế nào, A Hành chỉ một mực yên lặng lắng nghe.
Tới bên vách núi, A Hành chợt dừng bước, Thiếu Hạo cũng dừng lại, đứng bên nàng, cùng ngắm hoàng hôn.
Bên dưới vách núi chằng chịt những dây leo, cành lá đan vào nhau xanh ngắt, giữa đám lá xanh lại nổi lên một chéo áo đỏ, chính là Xi Vưu đang đu người bám lấy dây leo.
Hai người trên đỉnh núi gượng gạo lặng thinh, kẻ dưới thung sâu nín thở theo dõi, chỉ có gió lồng thổi tung muôn ngàn cánh phượng hoàng.
A Hành chợt chun mũi hít hít rồi thốt lên: “Rượu thơm quá!”
Thiếu Hạo bật cười đưa hồ rượu cho nàng, “Đây là Thư Điền tửu ta cất dựa theo bí quyết nàng tặng đó.”
A Hành uống ừng ực liền mấy ngụm cho đã thèm mới chịu trả hồ rượu cho Thiếu Hạo, giữa lúc kẻ đưa qua, người đưa lại, bầu không khí gượng gạo cũng xẹp bớt vài phần.
A Hành uống hơi nhanh, hơi rượu bốc lên khiến nàng đỏ bừng hai má, mấy cánh phượng hoàng hoa vương trên tóc càng tô điểm thêm vẻ hồng hào.
Thiếu Hạo định giơ tay phủi tóc giùm nàng nhưng A Hành vô thức né đi, khiến y ngượng ngùng rụt tay lại.
“Xin lỗi!”
Hai người đồng thanh tạ lỗi, rồi đồng thời sững người, trên đời đâu có đôi vợ chồng nào lại khách khí với nhau thế này?
Vầng dương đã khuất hẳn dưới Ngu uyên, bầu trời đen thăm thẳm.
Thiếu Hạo đứng bên vách núi, vạt áo phất phơ trong gió, toát lên vẻ quạnh hiu vô hạn: “A Hành, nàng còn nhớ những lời hai ta từng nói lúc ở Ngu uyên không?”
A Hành cau mày nghĩ ngợi một hồi rồi hổ thẹn lắc đầu: “Thiếp quên cả rồi.”
“Khi đó ta bị Yến Long đánh lén, sắp bỏ mạng tới nơi, nàng vốn có thể bỏ chạy một mình, nhưng vì cứu ta mà kẹt lại Ngu uyên. Chúng ta cho rằng mình đã cầm chắc cái chết, trước lúc lâm chung, ta từng nói nếu còn có kiếp sau, chúng ta sẽ kết thành chồng vợ.”
A Hành cười, “Chẳng phải bây giờ chúng ta đang là vợ chồng đây sao?”
Thiếu Hạo lắc đầu, “Chúng ta chỉ là bất đắc dĩ bị Cao Tân và Hiên Viên trói lại với nhau mà thôi.”
Thấy A Hành làm thinh, Thiếu Hạo khẽ nói tiếp: “Kể từ khi chúng ta bước lên cầu Nhân Duyên do Huyền điểu bắc nên, ta và nàng đã bị trói chặt vào nhau cả đời cả kiếp, có bằng lòng hay không cũng mặc. Hiện giờ trời cao để nàng sống lại, có lẽ cũng chính là ban cho chúng ta một cơ hội, nàng có muốn thử không? Thử cho hai ta một cơ hội, làm vợ chồng thật sự?”
A Hành không đáp, chỉ thẫn thờ ngắm nhìn vòm trời mênh mang, chẳng hiểu đang nghĩ gì.
Thiếu Hạo lại hỏi: “Nàng còn nhớ Xi Vưu không?”
“Thiếp không nhớ.”
Thiếu Hạo toan nói thêm gì đó, nhưng bị A Hành chặn lại, “Đã quên được hắn cũng không có gì quan trọng, thôi cứ để quên luôn đi!” Đoạn nàng cười nhìn Thiếu Hạo, “Đại ca nói thiếp và Xi Vưu từng là tình nhân, chàng có để bụng chuyện đó không?”
“Đương nhiên không rồi. Hai ta đã định nhân duyên từ lâu, nếu ta có lòng với nàng thì kẻ nào dám tranh đoạt chứ, là tự ta đẩy nàng ra xa thôi.”
“Vậy sao bây giờ chàng còn muốn làm vợ chồng với thiếp?”
“Ta… ta… dạo tân hôn, chúng ta từng giao hẹn chỉ làm vợ chồng hờ.” Thiếu Hạo xưa nay luôn ung dung hoạt bát, vậy mà lúc này lại căng thẳng đến lắp ba lắp bắp, “Giờ đây, ta thấy hối hận.”
A Hành đăm đăm nhìn Thiếu Hạo như muốn thấu cõi lòng y. Thiếu Hạo bỗng thấy tim đập thình thịch, dường như cả đất trời đều tan biến trong khoảnh khắc, chỉ còn lại nàng A Hành trước mặt, mỗi hơi thở tựa hồ xé nát trái tim y.
Hồi lâu A Hành chìa tay cho Thiếu Hạo, “Vậy được, chúng ta bắt đầu lại từ đầu, bỏ qua tất cả mọi chuyện khi trước, kể từ nay về sau, thiếp sẽ làm vương tử phi thật sự của chàng.”
Dưới vách núi chợt vang lên tiếng thở hổn hển, Thiếu Hạo giơ tay toan đánh xuống, chợt trông thấy một con vượn thả mình tuột khỏi vách đá, túm lấy dây leo mà đu lên cây, y liền ngừng tay, nắm chặt lấy tay A Hành, kéo nàng vào lòng, rồi dịu dàng hôn lên trán nàng. A Hành tựa vào người y, không hề cự tuyệt.
Thiếu Hạo vòng tay ôm chặt lấy A Hành, thì thầm thề với nàng lời thề trang trọng nhất trong đời: “Ta không chỉ muốn một vị vương tử phi, mà còn muốn nàng một lòng một dạ làm vợ ta suốt đời suốt kiếp này.”
A Hành run bắn cả người, toan ngẩng lên nói gì đó nhưng bị Thiếu Hạo ngăn lại, “Đừng nói gì cả, ta không muốn nghe gì hết, nàng chỉ cần nhớ lấy lời thề của ta là đủ.”
A Hành cảm nhận được bàn tay y khẽ run rẩy như một lời khẩn cầu thầm lặng, hồi lâu, nàng ngả đầu vào vai y, từ từ nhắm nghiền mắt.