A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.
Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.
Thần Nông sơn nằm giữa Trung Nguyên, phong cảnh đẹp đẽ, khí thế hào hùng, cả thảy gồm chín núi hai sông hai mươi tám đỉnh, phía Bắc thông với đầu mối giao thông Trạch Châu, phía Nam trông ra bình nguyên Yên Xuyên phì nhiêu, Đông có tấm bình phong thiên nhiên Nguyệt Hà che chắn, Tây là Chỉ Ấp, đô thành phồn hoa nhất thiên hạ. Trông thấy Thần Nông sơn, người ta mới hiểu thế nào là khí thế vương giả, thế nào là Trung Nguyên trù phú, cũng như biết nguyên nhân vì sao Thần Nông tộc lại đông đúc nhất trong Tam đại Thần tộc.
Lúc A Hành mơ màng tỉnh lại, nàng đã thấy mình ở dưới Thần Nông sơn. A Hành nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Liệt Dương và A Tệ, ngỡ ngàng, “Ngươi, ngươi… ta, sao ta lại ở đây? Vân Tang tỷ tỷ đâu rồi?”
Xi Vưu sáp lại bên nàng cợt nhả: “Vợ yêu, thì ra cô lấy mạng đổi mạng để cứu ta à?”
“Nói bậy! Thứ chuyên rước vạ vào thân như ngươi, ta chỉ mong chết sớm đi cho đỡ chật đất!”
Nghe thấy vậy Xi Vưu liền vạch tay nàng ra chỉ vết thương còn chưa khép miệng, “Chỉ cần được Vân Tang đưa lên núi, nhất định Viêm Đế sẽ cứu cô, nhưng thuốc giải chỉ có một, nếu cô lén đổi thuốc để Liệt Dương mang tới cho ta thì bản thân cô phải tính sao?
Bị vạch trần mọi toan tính, A Hành thẹn quá hóa giận bèn vùng khỏi tay Xi Vưu, “Ngươi đừng tưởng bở, dù có mười Xi Vưu chết đi ta vẫn sống phây phây!”
Xi Vưu cười tít mắt tiếp: “Vậy mới phải! Về sau cô tuyệt đối đừng ngốc như thế nữa, chỉ cần lúc ta còn sống, cô đối tốt với ta là được. Một khi ta chết rồi, cứ việc quăng xác ta vào núi cho dã thú tới chén sạch, như thể ta chưa từng tồn tại trên đời, cô cũng nên quên luôn đi mà vui vẻ sống tiếp cuộc đời mình.”
Tuy Xi Vưu tỏ vẻ cợt nhả nhưng lời nói ra lại rất nghiêm túc, thật chẳng hiểu rốt cuộc hắn đã phải trải qua những gì, mới có thể nhìn thấy sinh tử như vậy nữa. Nghe hắn nói, A Hành tái mặt, “Đừng nói vớ vẩn, tuy chúng ta được uống máu A Tệ nhưng cũng chẳng cầm cự được lâu đâu, không hiểu trấn giữ Thần Nông sơn là kẻ nào nữa, chúng ta phải mau nghĩ cách gặp Viêm Đế đi.”
Xi Vưu đáp: “Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ.”
Chúc Dung được tôn xưng là đệ nhất cao thủ Thần Nông tộc, Cộng Công được gọi là Thủy thần, Hậu Thổ là anh tài mới nổi mấy năm gần đây, thanh danh trong thần tộc chẳng kém gì Xi Vưu. A Hành sầm mặt, “Vậy đâu phải là trấn giữ Thần Nông sơn? Rõ ràng là có mưu đồ khác mà. Rốt cuộc kẻ nào đã hạ độc hại người? Có bạn bè nào tin cậy được để tìm cách đưa tin cho Viêm Đế không?”
Ánh mắt Xi Vưu lóe lên vẻ tàn độc, lạnh lùng đáp: “Lòng người khó lường, đến lúc sống chết trước mắt, trừ bản thân ra chẳng thể tin ai cả!”
Bộ dạng đa nghi thận trọng hiện giờ của Xi Vưu khác hẳn giáng vẻ cười cợt nói năng xem nhẹ sống chết vừa nãy, đột nhiên A Hành nảy dạ tò mò về quá khứ của hắn, chẳng rõ hắn đã trải qua những chuyện gì mới tạo nên tính cách phức tạp thế này?
Thấy Xi Vưu trầm tư nhìn về phía Thần Nông sơn như thể nghĩ cách đối phó, A Hành lòng dạ ngổn ngang, bất chấp hậu quả bị phụ vương cùng Đại ca hay biết, nhanh nhảu lên tiếng, “Ta sẽ lấy danh nghĩa vương cơ Hiên Viên xin gặp Viêm Đế.”
Xi Vưu vội giữ nàng lại, “Ta không đồng ý! Tây Lăng Hành!”
Hắn giơ tay vuốt ve Trụ Nhan hoa trên tóc nàng, “Đào là tinh hoa của năm loài cây, ngọc là linh hồn của đá, Trụ Nhan hoa là kỳ bảo do mộc linh của cây đào cùng ngọc linh trên Ngọc sơn hội tụ mười mấy vạn năm mới ngưng tụ thành, ý nghĩa thật sự của hai chữ “trụ nhan” chính là giữ lại cho cô bất kỳ dung mạo nào mà cô muốn, chứ không chỉ đơn giản là trẻ mãi không già đâu. Nghĩ xem mình thích biến thành hình dạng thế nào, một lúc sau, cô sẽ biến thành thế ấy, tới chừng đó, cô chẳng thể nhận mình là Hiên Viên Bạt được nữa rồi.”
Chẳng để A Hành kịp hiểu ý mình, hắn đã cười hì hì quay sang bảo Liệt Dương: “Mày ở Ngọc Sơn bao nhiêu năm như thế hẳn linh lực đã tăng cao, này, nhìn thấy tòa thành kia không? Mau qua đó luyện tập Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đi, thấy thứ gì gai mắt cứ việc cho nó một mồi lửa.”
Liệt Dương trước giờ chỉ sợ thiên hạ không loạn, vừa nghe nói liền phấn chấn tinh thần dang cánh bay đi ngay, A Hành không sao ngăn lại được, bèn hoảng hốt quay sang túm lấy Xi Vưu: “Đó là thủ phủ của Thần Nông tộc mà! Ngươi điên rồi sao, sao lại sai Liệt Dương phóng hỏa đốt thành?”
Xi Vưu ngỡ ngàng đáp: “Ta đâu có phóng hỏa đốt thủ phủ Hiên Viên tộc, cô lo cái gì?”
“Ta lo cái gì ư? Đó là kinh đô một nước đấy! Nếu người ta biết được ta là chủ của Liệt Dương, Thần Nông tộc sẽ lập tức phát binh đánh dẹp Hiên Viên tộc ngay!”
Nói đến đây A Hành đã thấy cửa Đông thành Chỉ Ấp cháy phừng phừng, nàng chỉ biết ôm mặt lẩm bẩm: “Đáng lẽ ta không nên dây dưa với kẻ điên rồ như ngươi, sao ta lại mau quên thế nhỉ?”
Xi Vưu lạnh lùng nhìn Chỉ Ấp từ từ biến thành biển lửa rồi ngẩng lên trời, thấy Chúc Dung cưỡi tọa kỵ Tất Phương điểu đang vội vã bay về phía Chỉ Ấp. Tuy Chúc Dung được xưng tụng là Hỏa thần nắm giữ tất cả lửa trong thiên hạ nhưng Xi Vưu biết hắn còn thiếu Phượng Hoàng huyền hỏa, tiếc rằng Phượng Hoàng là giống chim lành, lại là vua của muôn chim nên Chúc Dung không dám nảy lòng tham, nào ngờ hôm nay lại có Phượng Hoàng huyền hỏa từ trên trời rơi xuống, nhất định hắn sẽ rời khỏi Thần Nông sơn đuổi theo.
Xi Vưu vỗ về A Tệ ra ý bảo nó chở hai người lên đỉnh Tử Kim cao nhất Thần Nông sơn.
Thấy vậy A Hành chẳng buồn nổi giận nữa, chỉ xoa xoa má căng thẳng hỏi: “Lỡ như gặp phải thần tiên linh lực cao cường hơn mình nhiều, liệu ta có bị phát hiện không?”
“Cô đâu có dựa vào linh lực để biến hình, dù tu vi bọn họ có cao thế nào đi nữa cũng không bì nổi với thiên địa tạo hóa đâu, chỉ cần cô cẩn thận thì chẳng ai nhận ra được cả.”
A Hành nghe vậy liên thở phào nhẹ nhõm, rồi lại hồi hộp hỏi tiếp: “Xung quanh đều có binh lính canh gác, rốt cuộc ngươi định làm gì đây?”
Xi Vưu danh tay cười đáp: “Sợ rồi à? Vợ yêu, ta lúc nào cũng dang rộng vòng tay che chở cho cô mà.”
A Hành hít một hơi thật sâu, cố nhịn không cho hắn một đá.
Thị vệ từ hai bên sườn núi ló ra, cao giọng: “Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, xin quý khách về cho!”
Xi Vưu lệnh cho A Tệ đỗ xuống sơn cốc, trong khi A Hành cẩn thận đề phòng, hắn ngồi xổm xuống bên A Tệ, khẽ hỏi: “Mày thích A Hành lắm ư?”
A Tệ nghe hỏi liền vẫy đuôi thật lực, nhếch mép cười hớn hở rồi ngả đầu vào người A Hành. Đang lúc căng thẳng, A Hành chẳng để ý gì đến nó, chỉ thì thào với Xi Vưu: “Chúng ta bị bao vây rồi.”
Xi Vưu phớt lờ nàng, cứ vuốt ve A Tệ hỏi, “Nhưng sau này A Hành sẽ lấy chồng, chồng nàng chưa chắc đã thích mày, nói không chừng còn ghét mày nữa đấy.”
A Tệ nghe xong bèn đờ cả mặt ra, cặp mắt tròn xoe trợn trừng, đuôi dựng đứng, hai bên mép đang nhếch từ từ hạ xuống.
Xi Vưu lại bồi thêm: “A Hành lấy chồng rồi sẽ sinh con, đến lúc đó nàng ta yêu thương con mình, nhất định sẽ bỏ rơi mày. Mày còn nhớ chuyện cha dượng mà ta kể dọc đường lên Hiên Viên sơn không? Mấy gã cha dượng đó đều sẽ tìm trăm phương ngàn kế tống khứ đứa nhỏ trước mặt mình đi!”
A Tệ run lên bần bật, cụp ngay đuôi lại, hai bên mép bắt đầu trễ xuống, nước mắt ngân ngấn.
A Hành đang căng thẳng nghe thấy vậy liền nối giận, “Ngươi kể cho nó chuyện cha dượng bạc đãi trẻ con làm gì?” Nói rồi nàng vội vỗ về A Tệ, “Mày đừng nghe tên vô lại ấy nói bậy, hắn cố ý dọa mày đó.”
Xi Vưu vẫn chăm chú nhìn A Tệ, nghiêm túc nói tiếp: “Mày nghĩ mà xem, đến lúc đó A Hành có con của mình, không cần mày nữa, Liệt Dương cũng không cần mày nữa, tội nghiệp quá!”
Nghe Xi Vưu nói, A Tệ òa lên khóc nức nở. Từ lúc sinh ra nó đã coi A Hành như mẹ, cho rằng mình sẽ mãi mãi ở bên nàng nên hết sức yên tâm, về sau có thêm Liệt Dương ngày ngày vui đùa cùng nhau, lại càng vô tư vô lự, mãi đến giờ nó mới nhận ra tất cả mọi thứ mình có đều có thể biến mất trong nháy mắt, lần đầu tiên, A Tệ hiểu thế nào là “mất mát”.
A Hành lấy làm lạ trừng mắt nhìn Xi Vưu, “Bây giờ là lúc nào rồi hả? Ngươi còn rảnh rỗi đi bắt nạt trẻ con nữa, đúng là điên!”
Nàng dịu giọng dỗ dành A Tệ, nhưng cứ nghĩ tới có ngày mất đi một A Hành yêu thương mình nhường này, A Tệ lại càng thêm buồn bã, càng lúc càng khóc lóc thảm thiết hơn, hệt như cái ngày đau khổ đó đã đến vậy.
Sơn cốc mà Xi Vưu quyết định đỗ lại được gọi là Hồi Âm cốc, nằm trên con đường bắt buộc phải đi qua để lên đỉnh Tử Kim, thị vệ canh giữ nơi này đều được tuyển chọn kỹ càng trong đám anh tài tinh nhuệ của Thần tộc.
Hồi Âm cốc có địa thế đặc thù, chỉ cầm một thanh âm nhỏ cũng có thể bị khuếch đại lên thành tiếng vọng lan đi, Viêm Đế đời đó đã lợi dụng địa thế thiên nhiên này, bố trí thị vệ ở các nơi đặc biệt của vách âm, hễ có người nào lẻn vào, đám thị vệ sẽ chú ý ngay, bởi vậy hơn vạn năm nay chưa một ai dám liều mạng đi qua Hồi Âm cốc.
Nhờ hiệu ứng tiếng vọng ở đây, tiếng nức nở của A Tệ được khuếch đại lên như thể có cả trăm A Tệ đang than khóc, tiếng khóc bi ai ầm ầm lan đi như sấm động ngày xuân. Tiếng kêu của hồ ly có thể mê hoặc lòng người, tệ tệ lại là loài có tiếng kêu êm tai nhất trong Hồ tộc, A Tệ ăn đào tiên, uống ngọc tủy, linh khí dồi dào, lúc này tiếng khóc than cất lên từ đáy lòng nó quả khiên nước non ảm đạm, cây cối ủ ê, cả đất trời cũng phải đổi sắc.
Đám thị vệ đang bao vây hai người không kiềm chế nổi trước tiếng khóc của A Tệ, thoạt đầu họ còn vận linh lực chống lại, nhưng ai chẳng có nỗi đau mất mát trong quá khứ, tiếng than khóc của A Tệ khơi gợi lại những nỗi niềm chôn sâu nơi đáy lòng họ, chuyện xưa dồn dập hiện ra, bao nhiêu ly biệt trong đời đan kết lại, đau khổ chất chứa thành sông thành biển, bi thương trào ra không sao nén nổi, cả đám thị vệ đều khóc òa lên.
Khắp Hồi Âm cốc bỗng chốc vang lên khúc ly ca khiến đất trời cũng phải rầu lòng, ngay Hậu Thổ cùng Cộng Công thần lực cao cường cũng không dám manh động, đành chia nhau ra mỗi người giữ lấy một đỉnh núi, trừng mắt nhìn Xi Vưu.
Xi Vưu ngồi trên tảng đá vẫy tay với Cộng Công và Hậu Thổ, hai người kia chần chừ một thoáng rồi cưỡi tọa kỵ bay xuống trước mặt hắn. Xi Vưu đưa mắt nhìn đám thị vệ đang nức nở xung quanh, cười nói: “Hồi Âm cốc hệt như một trận đồ âm thanh thiên nhiên, các thị vệ lại vô tình vận linh lực khởi động trận pháp, họ càng đau buồn thì càng khóc lóc, càng khóc lóc sẽ càng đau buồn, cứ thế đến khi cạn kiệt tinh huyết mà chết.”
Cộng Công và Hậu Thổ tái mặt, hơn trăm thị vệ này là lực lượng tinh nhuệ bảo vệ Thần Nông sơn, nếu mất bọn họ thì hậu quả thật khó lường.
Cộng Công đành thi lễ với Xi Vưu, “Chức trách của chúng ta là phụng mệnh canh giữ Thần Nông sơn, mong ngươi nể tình nhẹ tay cho.”
Xi Vưu nói, “Ta muốn gặp Viêm Đế.”
Cộng Công bối rối đáp, “Chuyện này ta phải xin ý kiến Chúc Dung đại nhân đã.”
Xi Vưu cười, “Đáng lẽ Chúc Dung phải giao cho ngươi toàn quyền phụ trách mọi chuyện trên Thần Nông sơn rồi chứ, nếu ngươi muốn xin ý kiến thì cứ đi đi, dù sao ta cũng chẳng hề hấn gì, muốn đợi bao lâu thì đợi, nhưng những thị vệ này liệu có đợi nổi không? Lẽ nào ngươi định trơ mắt nhìn bọn họ khóc đến chết ư?”
Cộng Công phân vân không sao quyết định, bèn nhìn sang Hậu Thổ, Hậu Thổ trông thanh tú như nữ tử, lời lẽ cũng vô cùng nhã nhặn, “Mọi việc xin nghe theo Cộng Công sắp xếp.” Ngừng một lát, gã lại nói thêm, “Viêm Đế đã dặn không gặp ai cả, nhưng Xi Vưu là đồ đệ duy nhất của ngài kia mà.”
Nhìn đám thị vệ đang khóc than tuyệt vọng xung quanh, Cộng Công đành thở dài bảo Xi Vưu, “Ta chỉ có thể đưa ngươi lên đỉnh Tử Kim xin gặp Viêm Đế, còn hôm nay Viêm Đế có gặp ngươi hay không, ta không đảm bảo được đâu.”
Xi Vưu vội chắp tay cảm tạ, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng!” Nói rồi hắn nắm tai A Tệ thì thào mấy câu, lập tức hai mắt A Tệ sáng lên, tiếng khóc nín bặt. Thấy A Tệ nghiêng đầu nhìn mình, Xi Vưu trang trọng bồi thêm: “Ta bảo đảm đấy!”
Nghe vậy A Tệ liền nhếch mép lên thành một nụ cười vui vẻ, cong cong tựa vành trăng non.
A Hành nắm lấy tai kia của A Tệ buồn bã nói: “Sao mày ngốc thế? Hắn bảo gì mày cũng tin à?”
A Tệ khẽ gừ gừ, dụi đầu vào người A Hành, cái đuôi xù vẫy qua vẫy lại, phẩy cả vào mặt A Hành, hai mắt như cũng cười tít lên thành hai vành trăng nhỏ cong cong.
A Hành chỉ biết lắc đầu ngao ngán.
A Tệ ngưng khóc, mắt xích của trận pháp cũng mất đi, Cộng Công vận linh lực gầm lên mấy tiếng khí thế nuốt chửng sơn hà, âm vang lan đi khắp Hồi Âm cốc, tất cả thị vệ nghe thấy đều giật nảy mình, nín bặt.
Nghe tiếng gầm của Cộng Công, A Hành ngấm ngầm kinh sợ, bắt đầu quan sát viên tướng được đặt ngang với Chúc Dung nhưng lại luôn đứng khuất sau cái bóng của Chúc Dung này, giờ đây nàng mới hiểu nguồn cơn câu nói của Xi Vưu, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng.”
Cộng Công cùng Hậu Thổ đưa Xi Vưu và A Hành lên tới đỉnh Tử Kim, đang định vào cầu kiến thì ông lão râu bạc quét tước trước điện đã ngẩng lên lạnh lùng bảo, “Viêm Đế lệnh cho Cộng Công và Hậu Thổ ở lại, còn Xi Vưu tới đỉnh Tiểu Nguyệt gặp ngài.”
Mặc cho hai người Cộng Công, Hậu Thổ tái mặt, Xi Vưu vội chắp tay từ biệt bọn họ.
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
A Hành thấy đã cách xa khỏi bọn họ mới khẽ lên tiếng hỏi: “Đỉnh Tiểu Nguyệt có gì khác lạ ư?”
Ánh mắt Xi Vưu đầy vẻ trầm tư, “Điểm đặc biệt duy nhất của đỉnh Tiểu Nguyệt…” Đang nói đột nhiên hắn ho lên mấy tiếng, đoạn phun ra một búng máu, tuy nãy giờ chẳng dùng tới chút sức lực nào nhưng để giữ được khí thế trước mặt Cộng Công và Hậu Thổ, hắn đã phải gắng gượng lắm rồi, “Chính là chúng ta chưa một ai đặt chân lên đó.”
A Hành khẽ nói: “Ngươi nghỉ một lát đi đã.”
Xi Vưu cười mệt mỏi, ngả đầu vào vai A Hành, nàng giơ tay định đẩy hắn ra nhưng rồi lại rút tay về, chỉ lặng lẽ ngồi yên cho hắn dựa.
Chẳng bao lâu, hai người đã tới Tiểu Nguyệt đỉnh.
Đó là một ngọn núi bất thường, không có cung điện, không có thị vệ, chẳng có gì hết, duy chỉ có cây cối um tùm. Một chú hươu sao đứng dưới gốc tùng đầu núi nhìn ra, vừa trông thấy hai người, nó liền tác lên mấy tiếng để đón khách.
A Tệ cũng cao hứng hú lên hòa với tiếng tác của hươu sao, trong thoáng chốc dường như cả vùng núi sông đều tươi tắn hẳn.
Chú hươu sao ngẩng cao đầu, tác lên một tiếng thật dài rồi nhảy nhót dẫn đường, như muốn nói: “Các vị, mời theo tôi!”
Hai người bám gót hươu sao men theo con đường nhỏ trong núi, xuyên hoa rẽ liễu mà đi, băng qua khe núi, họ tiến vào một sơn cốc.
Bỗng chốc, ánh lam dập dờn rọi vào mắt khiến ai nấy đều ngỡ như vừa đặt chân lên nền trời xanh biếc.
Cả sơn cốc phủ đầy các loài hoa xanh lam như đỗ quyên, bách hợp, mộc lan, phù dung, tường vi… chẳng hề lẫn chút tạp sắc. Sắc xanh biêng biếc hòa cùng màn sương mịt mù khiến cả sơn cốc toát lên vẻ mờ mờ ảo ảo như một nỗi tương tư đằng đẵng khôn nguôi, tựa hồ Giang Nam mỗi độ đầu xuân, thời tiết chợt ấm chợt lạnh, mưa bụi lất phất bay nhưng bầu trời vẫn xanh thăm thẳm, thậm chí còn điểm xuyết vài tia nằng nhạt, có điều hơi lạnh se se vẫn giăng mắc khắp cảnh vật cũng như trong lòng người.
Phóng tầm mắt ra xa chỉ thấy ba ngôi mộ trên sườn núi, bình lặng an nghỉ giữa biển xanh hoa biếc.
A Hành không bám theo hươu sao nữa mà trèo lên sườn núi tới trước mấy ngôi mộ, rẽ những nhành hoa sơn trà xanh biếc cao tới thắt lưng ra, thấy trên bia mộ lần lượt đề:
Mộ ái thê Thần Nông Thính Yêu, chồng là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.
Mộ con gái Thần Nông Nữ Oa, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.
Mộ con gái Thần Nông Dao Cơ, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.[1]
[1] Theo Sơn Hải kinh và Thái Bình Ngự Lãm chép lại, Viêm Đế có ba con gái, một người là Dao Cơ, từ nhỏ đã yếu đuối bệnh tật, qua đời giữa lúc đang trẻ tuổi, sau khi chết hóa thành giọt sương trên cỏ. Một người nữa là Nữ Oa, không may chết đuối hóa thành chim Tinh Vệ, ngày ngày lấp biển. Thần Nông thị nếm trăm loài cây cỏ để cứu thiên hạ nhưng lại không cứu nổi con gái mình.
Đây là lần đầu A Hành biết được Viêm Đế Thần Nông nếm cả trăm loài cây cỏ tên thật là Thạch Niên. Chạm vào những con chữ trên bia, nàng nhận ra chúng không phải được khắc lên mà được trực tiếp dùng tinh huyết trong tim viết thành, mỗi tấm bia là vô số giọt tinh huyết quý giá kết tụ, người viết đã dùng cả mạng sống của mình để tưởng nhớ kẻ nằm dưới mộ.
Viêm Đế chỉ cưới duy nhất một người vợ. Hơn ngàn năm trước, Viêm Hậu qua đời. Từ đó đến nay, vì đủ thứ mục đích, các tộc dâng lên không biết bao nữ tử xinh đẹp hiền đức nhưng đều bị Viêm Đế từ chối. Người đời đồn đoán rất nhiều lý do, trong đó đáng tin nhất là nếu Viêm Hậu khác được lập lên, ắt một tộc nào đó sẽ tha hồ bành trướng, mà Viêm Đế không muốn phá vỡ thế cân bằng hiện nay giữa các tộc nên đành bỏ trống ngôi Viêm Hậu.
Nhưng lúc này đây, nhìn dòng chữ trên bia mộ, A Hành lại nghĩ thầm: Có lẽ mọi người đều đoán sai cả, Viêm Đế bỏ trống ngôi Viêm Hậu chỉ vì một nguyên nhân rất đơn giản mà thôi.
Không thấy hai người theo sau, hươu sao nghi hoặc tác lên như giục giã. A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.
Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.
Tim A Hành bỗng nhiên đập mạnh, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu rồi tung người nhảy xuống khỏi sườn núi. Thấy vậy Xi Vưu chỉ nhoẻn cười, dịu dàng nhắc nhở: “Cô từ từ thôi kẻo ngã.”
Hươu sao dắt bọn họ băng qua sơn cốc tới một khu đất rộng được phủ kín muôn hồng nghìn tía, mỗi thửa đất ở đây đều trông đủ các loại dược thảo khác nhau.
Một ông lão mặc quần vải thô xắn gấu đang miệt mài cuốc đất, nghe tiếng chân hươu sao, lão mới đứng thẳng dậy, dừng tay, ngoảnh lại cười với họ.
Nhìn ông lão trước mắt dung mạo bình thường, ăn vận giản dị nhưng để ý kỹ lại thấy toát lên khí thế như non xanh nước biếc, thiên địa tự nhiên, A Hành ngấm ngầm kinh hãi, liền hiểu ngay đây chính là Viêm Đế, người đứng đầu Tam Đế.
Viêm Đế lên tiếng, “Thật không ngờ Xi Vưu lại đưa cả khách tới.”
Xi Vưu vào thẳng vấn đề: “Cần thuốc giải, hai liều!” Chưa nói hết câu hắn đã kiệt sức tàn hơi, ngã phịch xuống bờ ruộng, miệng ứa máu đen.
Viêm Đế đưa cho Xi Vưu một viên thuốc giải, “Thứ độc này chỉ có một liều nên cũng chỉ chuẩn bị một liều thuốc giải thôi.” Nói rồi ông quay sang bảo A Hành: “Tiểu cô nương, để ta khám cho cô nào.”
A Hành đưa tay ra, Viêm Đế vừa xem mạch đã cười hỏi: “Sao cô lại dẫn chất độc vào người mình?”
A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu, trả lời: “Không phải nguyên nhân như ngài nghĩ đâu, chỉ vì hắn còn nợ tôi thôi.”
Thấy Xi Vưu bẻ đôi viên thuốc trong tay, nuốt một nửa còn một nửa đưa cho A Hành, Viêm Đế nói: “Dù ngươi có dị bẩm trời sinh nhưng gắng gượng được đến giờ đã là cực hạn rồi, mau uống hết thuốc giải của mình đi.”
Xi Vưu không đếm xỉa gì tới Viêm Đế, chỉ chăm chú nhìn A Hành.
Thấy vậy mắt Viêm Đế thoáng vẻ ngạc nhiên, bèn quay sang nhìn kỹ A Hành, “Chất độc trong người tiểu cô nương tạm thời không sao, ta sẽ phối chế thuốc giải cho cô ngay.”
Xi Vưu nghĩ đi nghĩ lại rồi bỏ nốt nửa viên thuốc giải kia vào miệng.
Một chú chim đỏ rực đầu xuống vai Viêm Đế, Viêm Đế gỡ tấm thẻ ngọc khỏi chân nó, đọc xong ông gượng cười hỏi: “Ngươi phóng hỏa đốt Chỉ Ấp ư?”
Xi Vưu nhắm mắt không đáp, hai tay sục sâu vào lòng đất, sắc mặt hắn từ từ khá lên, trong khi đó, mặt đất cùng hết thảy kì hoa dị thảo trông trên núi đều nhợt nhạt hẳn đi, như thể Xi Vưu đã hấp thụ hết sức sống của cả vùng đất này.
Thấy A Hành tròn mắt nhìn đầy kinh hãi, Viêm Đế giải thích: “Hắn tự ngộ được đạo trời, công pháp đi theo một con đường riêng, chúng ta không hiểu được đâu.”
A Hành lúng túng hỏi thêm: “Con lang điểu đó bị bắt rồi ư?”
Viêm Đế vuốt ve con chim đỏ rực trên vai, nó liền sải cánh bay đi, “Ta đã truyền lệnh sai Du Võng trông nom nó rồi, không để Chúc Dung động tới nó đâu.”
Nghe vậy A Hành mới nhẹ lòng, “Đa tạ ngài.”
Viêm Đế thở dài: “Chúc Dung ghét cay ghét đắng Xi Vưu, nếu hắn có mặt, nhất định Xi Vưu không thể lên núi thuận lợi như vậy, có điều hắn vừa nảy lòng tham đã bị Xi Vưu lợi dụng ngay.”
A Hành càng lúc càng bối rối, lẽ nào không phải kẻ hạ độc cố ngăn trở Xi Vưu gặp Viêm Đế ư? Sao nghe như thể Viêm Đế cố ý sai người trấn giữ Thần Nông sơn thế nhỉ?
“Khi nào ông mới chịu chế thuốc giải cho A Hành đây?” Xi Vưu đứng trước mặt hai người, ánh mắt sáng rực, hiển nhiên vết thương đã bắt đầu lành.
Viêm Đế quay lưng đi về phía căn nhà trúc, “Mai mới chế được thuốc giải, hôm nay hai ngươi ở lại đây đi.”
A Hành cùng Xi Vưu nối gót Viêm Đế bước vào căn nhà trúc, Xi Vưu bó gối ngồi xuống bên cửa sổ, Viêm Đế lấy bộ đồ trà ra pha, nhưng A Hành không nỡ để ông làm, bèn giành lấy, “Để tôi, lúc ở nhà tôi thường pha trà cho mẹ.”
Viêm Đế gật đầu cười, đưa cây quạt hương bồ cho A Hành rồi ngồi xuống đối diện với Xi Vưu, trầm ngâm không nói.
Đột nhiên Xi Vưu lên tiếng: “Ta nghi ngờ Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ, thậm chí nghi ngờ cả Du Võng và Vân Tang nhưng vẫn một mực tin rằng ông không biết gì cả. Mãi đến khi tới Thần Nông sơn ta mới phát hiện ra, kẻ có khả năng hạ độc nhất chính là ông, chỉ Thần Nông thị nến trăm loại thảo dược, am hiểu dược tính mới có thể chế được độc chất lợi hại thế này. Tại sao vậy? Sư phụ!”
Tiếng “sư phụ” của Xi Vưu gọi nghe lạnh buốt, khiến cả căn phòng tựa hồ đông cứng lại. A Hành nín thở lén liếc Xi Vưu nhưng hắn đã ngoảnh ra cửa sổ, không sao thấy được sắc mặt.
Viêm Đế im lặng nhìn Xi Vưu, nhất thời không khí trong phòng yên tĩnh đến nghẹt thở.
Tiếng nước sôi sùng sục phá vỡ bầu không khí nặng nề, A Hành lóng ngóng pha trà rồi hấp tấp bưng lên bàn, đoạn kiếm cớ tránh đi, “Tôi ra ngoài xem hươu sao và A Tệ đang làm gì.”
Nào ngờ Xi Vưu bỗng ấn nàng ngồi xuống bên cạnh, “Cô có quyền được biết nguyên nhân mình trúng độc.” Cặp mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm Viêm Đế đầy khiêu khích, “Sư phụ, ông đã muốn giết ta, sao còn thu nhận ta?”
Viêm Đế mỉm cười quay sang hỏi A Hành: “Cô có biết Xi Vưu trở thành đồ đệ duy nhất của ta thế nào không?”
A Hành lắc đầu.
Viêm Đế bưng tách trà lên, ngoảnh nhỉn ra cửa sổ, “Mấy trăm năm trước, trong một buổi chầu, quan viên quản lý sự vụ Tây Nam tấu rằng đám tiện dân Cửu Di đã làm phản, còn giết hại mấy trăm quan viên Nhân tộc cùng một quan viên Thần tộc, lúc đó ta đang rối bời vì bệnh tình của Dao Cơ, bèn sai Du Võng lo liệu việc này. Hơn trăm năm sau, Chúc Dung dâng sớ vạch tội Du Võng, thì ra mối họa Cửu Di bắt nguồn từ một con yêu thú không rõ lai lịch, tự ngộ được đạo trời, có khả năng hiệu lệnh muông thú nên được tộc Cửu Di tôn xưng làm Thú vương, nhưng thực ra, nó còn hung tàn ác độc hơn hổ báo. Du Võng thương xót đám tiện dân Cửu Di, không nỡ xuống tay giết hại nó, có điều con yêu thú ấy ngu xuẩn hồ đồ, đã đả thương mười mấy đại tướng của ta. Vì chuyện này mà Du Võng cùng Chúc Dung xung đột liên miên, không sao dàn xếp nổi, ta tra rõ sát nghiệp yêu thú phạm phải rồi khiển trách Du Võng, đồng thời chấp nhận cho Chúc Dung đi tiêu diệt Thú vương của Cửu Di.”
A Hành sớm đã đoán ra con dã thú ấy chính là Xi Vưu, tuy chuyện đã qua lâu nhưng tưởng tượng vẫn thấy kinh hồn bạt vía, Xi Vưu từng bị đám cao thủ Thần tộc truy sát cả trăm năm nay, hèn chi lúc hắn lẩn trốn, đến Đại ca thần lực cao cường cũng tìm không nổi.
Viêm Đế nhấp ngụm trà, ngừng một lát mới kể tiếp: “Ta cứ ngỡ rằng thế là xong, nào ngờ một đêm Du Võng đột ngột cầu kiến, nói Cửu Di tộc đã đầu hàng, cam nguyện đời đời kiếp kiếp làm tiện dân, chỉ đưa ra một điều kiện duy nhất là xin tha cho Thú vương của họ. Du Võng vật nài ta triệu Chúc Dung về khiến ta không khỏi nảy dạ tò mò với con dã thú ấy, ngay đêm đó bèn tới Cửu Di. Lúc ta tìm thấy họ trong đầm lầy, tình cảnh bấy giờ vừa nguy hiểm vừa tức cười, dã thú tự đem thân làm mồi, nhử gã Chúc Dung kiêu căng nôn nóng vào vùng đầm lầy thi độc, độc trùng trong đó muôn hình vạn trạng, mấy thần tướng thảy đều trúng độc, còn Chúc Dung rõ ràng có thể phóng một mồi lửa thiêu chết con yêu thú đó, nhưng một khi phát hỏa sẽ làm nổ tung khí ứ tích tụ trong đầm lầy mấy vạn năm nay, dù hắn có hỏa linh hộ thể, quá lắm cũng chỉ bị thương nhẹ nhưng các thần tướng kia thì chết chắc. Bấy giờ Chúc Dung chửi bới ầm ĩ, quyết lột da xẻ thịt dã thú, dã thú cũng chưa sõi tiếng người, chỉ nghiến răng nghiến lợi gầm gừ đồng thời vỗ ngực liên tục, như thế nói, tới đây, tới đây đốt chết ông mày đi!”
Viêm Đế thuật lại rồi bật cười nhìn Xi Vưu, đoạn quay sang bảo A Hành, “Lúc đó ta vô cùng kinh ngạc, dã thú sinh trưởng nơi rừng núi biết cách lợi dụng trùng độc chướng khí cũng chẳng lấy gì làm lạ, chính cái địa điểm nó chọn để cùng chết với kẻ thù hết sức thông minh, đầm lầy vốn là một chỗ kỳ lạ, lẫn lộn cả đất và nước, cả hai đều có thể khắc chế hỏa linh, thêm vào đó nơi này nồng đặc khí ứ, chỉ cần một đốm lửa là nổ tung, Chúc Dung rơi vào đây chắc chắn sẽ mất hết khả năng khống chế mọi thứ. Xem ra con dã thú nói không sõi tiếng người này còn nắm vững cách vận dụng thiên thời địa lời hơn nhiều cao thủ Thần tộc.”
Nghĩ tới trận pháp tiếng vọng khi nãy, A Hành cũng gật đầu tán đồng, Viêm Đế lại kể tiếp: “Ta nhận ra con dã thú đó vốn không phải thú mà là một kẻ không cha không mẹ được muông thú nuôi lớn, bèn lệnh cho Chúc Dung im miệng rồi từ từ bắt quen với nó, mặc cho nó đối với ta đầy thù địch, vừa ra vẻ lắng nghe ta nói lại vừa xảo trá điều khiển độc trùng độc thú đánh lén ta, thăm dò nhược điểm của ta, tiếc rằng nó không biết ta thông thạo dược tính, mấy thứ độc đó vốn không thể làm hại ta được. Càng quan sát ta càng kinh ngạc trước thiên tư của nó, đồng thời cũng càng thêm sợ hãi, thiên tư cao như thế, lại hung tàn hiếu sát như thế, phút chốc ta vừa mừng rỡ vì tìm ra một kẻ có tư chất trời sinh, vừa cảm thấy nên giết hắn ngay lập tức.”
Rõ ràng đây cũng là lần đầu Xi Vưu biết được sự sống chết của mình chỉ phụ thuộc vào một ý nghĩ của Viêm Đế, hắn ngoảnh lại nhìn Viêm Đế vẻ thờ ơ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì.
“Giữa lúc đương phân vân chưa quyết, bỗng một đóa hoa rụng từ đâu bay lại, con khỉ hung tàn xảo trá đó liền bắt ngay lấy ngắm nghía thật kỹ, bốn bề xung quanh đều bẩn thỉu hôi hám, dường như nó sợ làm bẩn đóa hoa nên đã cẩn thận cài luôn lên đầu. Trông đầu nó lông tóc bù xù lại cài một đóa hoa dại, bộ dạng rất tức cười, còn trợn trừng hai mắt nhìn ta, ta nhịn không được cười phá lên, cũng chẳng định giết nó nữa, bèn lệnh cho bọn Chúc Dung lui cả ra, để lại mình ta với nó trong đầm lầy suốt mười ngày mười đêm, cuối cùng cũng giành được lòng tin của nó, đưa nó rời khỏi đó. Ban đầu ta ra điều kiện rằng sẽ chữa khỏi vết thương và cái chân cho nó, đổi lại nó phải theo ta về Thần Nông sơn, nhưng bị nó từ chối. Dần dà ta nhận ra tuy nó bạo ngược nhưng cũng rất ngây thơ, cách duy nhất để kết bạn với nó là phải thật lòng đối đãi, bèn nói thẳng ra rằng ta thấy nó thông minh đĩnh ngộ, đánh bầy cũng muông thú thì thật đáng tiếc nên muốn nó trở thành một người như ta đây, nghe vậy, nó liền đồng ý tới Thần Nông sơn.”
Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, ánh mắt trong trẻo sáng rõ tựa vầng trăng trong vắt đêm xuân, lại như đóa hoa dại đơn sơ bên khe núi, khiến A Hành vừa hoang mang vừa bối rối, vội ngoảnh đi tránh ánh nhìn của hắn, “Con dã thú đó sau này đã trở thành đồ đệ của ngài, mang tên ‘Xi Vưu’?”
Viêm Đế gượng cười: “Sau khi về Thần Nông sơn, ta cũng mất bao công sức mới thuyết phục được hắn chịu làm đồ đệ đấy. Thoạt đầu phải giải thích mãi cho hắn hiểu sư phụ và đồ đệ nghĩa là gì, hiểu được rồi hắn liền lắc đầu quầy quậy, cho rằng mình bị thiệt, ta đành hứa sẽ xóa bỏ tiện danh Cửu Di, ban tên mới là Cửu Lê, lại đem trứng cá côn ở Bắc Minh ra trao đổi, nói với hắn chỉ cần ấp cho trứng nở thì tương lai có thể bay lên trời, hắn mới chịu miễn cưỡng nhận lời.”
A Hành rất hiểu nụ cười gượng gạo của Viêm Đế, e rằng tất cả thiếu niên trong thiên hạ đều mơ được làm đồ đệ Viêm Đế, vậy mà để thu nhận gã Xi Vưu này, Viêm Đế lại phải vừa lừa vừa nhử.
Viêm Đế nhìn tên đồ đệ của mình, ánh mắt vô cùng phức tạp, “Thiên tư của ngươi vượt xa người thường, ngày tiến ngàn dặm khiến ta vừa mừng vừa sợ. Từ khi quyết định nhận ngươi làm đồ đệ, trong lòng ta đã coi ngươi là người thân nhất, cũng giống như Vân Tang, Du Võng, Mộc Cận vậy, ta vui mừng theo từng bước tiến bộ của ngươi, nhưng ta vẫn là vua một nước, thân làm Viêm Đế, ta không thể không e sợ ngươi. Ta sợ rằng một ngày nào đó, Chúc Dung hay ai đó kích động khiến cuồng tính của ngươi phát tác, ngươi sẽ đem hết sở học của mình ra đối phó với trăm họ Thần Nông nên đành phải hạ độc ngươi.” Dẫu Chúc Dung nóng nảy tham lam thế nào, Hậu Thổ ẩn nhẫn âm trầm ra sao cũng vẫn còn nhược điểm và ràng buộc, chỉ có Xi Vưu không cha không mẹ, không gì níu kéo, tính tình lại cuồng vọng bất kham, trời không ràng đất không buộc nổi mà thôi.
Xi Vưu sốt ruột cất tiếng, “Thôi được rồi, ta không muốn nghe ông dông dài, cũng chẳng buồn tính sổ chuyện ông hạ độc đâu, ông mau giải độc cho A Hành đi, ta mãi mãi không quay lại nữa là xong chứ gì.”
Viêm Đế cười nhìn Xi Vưu, nét mặt thoáng vẻ hiền hòa, “Một trăm tám mươi năm trước ngươi nổi giận rời khỏi Thần Nông sơn, ta đã ngỡ rằng ngươi chẳng bao giờ hồi tâm chuyển ý nữa, vậy mà nửa đêm Du Võng lại đuổi theo kéo ngươi về. Khi đó ta biết mình đã nhìn lầm ngươi, nhưng chần chừ trong phút chốc, cuối cùng vẫn không giải độc cho ngươi. Ta vốn định đợi ngươi dự tiệc Bàn Đào trở về. Lệnh cho bọn Chúc Dung trấn giữ Thần Nông sơn, cấm tất cả mọi người lên núi, không phải là để ngăn trở ngươi mà bởi ta đã bị trúng độc, sắp chết tới nơi rồi.” Câu nói sau cùng của Viêm Đế quá kỳ quái, khiến người ta còn tưởng mình nghe lầm, nhưng Viêm Đế lại lặp lại rành rọt, “Xi Vưu, ta đã trúng độc, chẳng sống được bao lâu nữa đâu.”
Xi Vưu vội nắm lấy cổ tay Viêm Đế, Viêm Đế không hề phòng bị, mặc cho hắn khống chế mệnh môn, “Hiên Viên có Thanh Dương, Cao Tân có Thiếu Hạo, còn Thần Nông lại chẳng có kẻ kế nhiệm nào đủ sức đảm đương cả, Du Võng tâm địa thiện lương nhưng năng lực tầm thường, Chúc Dung quá tham lam tàn nhẫn, dã tâm còn cao hơn năng lực, Cộng Công lại cứng nhắc câu nệ hết sức, không biết biến báo, Hậu Thổ tuy có tài, có thể bồi dưỡng được nhưng bề ngoài hiền hòa khiêm tốn mà tâm địa gian trá, nhẫn nhục dè dặt quá mức, đám vô lại không có tiền đồ đó chẳng ai chịu ai, e rằng ta vừa nằm xuống chúng đã đấu đá tranh đoạt lẫn nhau đến long trời lở đất, Du Võng chẳng trấn áp nổi đâu.”
Viêm Đế không nguôi trăn trở, “Hiên Viên Hoàng Đế đã sẵn sàng gươm giáo, nhẫn nhịn cả ngàn năm rồi, giờ đây tin ta chết sẽ thay ông ta rúc hồi kèn giục đại quân Đông tiến. Cao Tân và Thần Nông lại đấu đá suốt mấy vạn năm nay, giữa lúc then chốt để Tuấn Đế hiện thời kế vị, phụ vương ta đã phái mười vạn đại quân áp sát, nếu không có Thiếu Hạo ra sức ngăn cản e rằng Tuấn Đế đã thành đống xương khô từ lâu, thù này há có thể bỏ qua sao?”
Giữa đôi mày Viêm Đế trùng trùng những lo âu, hệt như từng trái từng trái núi sắp đổ sụp xuống khiến A Hành trông mà lạnh toát cả người, tim đập thình thịnh, tựa hồ đã thấy thiên quân vạn mã đang sầm sập kéo đến, vậy mà Xi Vưu dường như chẳng để những lời đó vào tai, chỉ chăm chú dùng linh lực tra xét thân thể Viêm Đế.
Giọng Viêm Đế đượm vẻ bất lực mà thê lương, “Sự yên ổn hòa bình mấy vạn năm nay trên đại hoang kết thúc tới nơi rồi, chúng sinh thiên hạ lại sắp rơi vào vòng chiến loạn liên miên không dứt.”
Thấy Xi Vưu lặng lẽ buông tay ra, Viêm Đế liền chăm chú nhìn hắn, “Nể tình ta chẳng còn sống được bao lâu, ngươi tha thứ cho lão già này được không?”
Xi Vưu lạnh lùng đáp: “Ông đâu đã chết.” Tuy giọng điệu vẫn đầy vẻ vô tình nhưng hắn không nhắc tới chuyện ra đi nữa.
Viêm Đế cười nói: “Ta định trước khi chết sẽ phong ngươi làm Đốc Quân Đại tướng quân, không chỉ thống lĩnh toàn bộ quân đội Thần Nông quốc mà còn có quyền bác bỏ những quyết định của Viêm Đế. Có điều quân đội Thần Nông chia làm sáu, một phần là tùy tùng của Viêm Đế, chỉ Viêm Đế mới có quyền điều động, còn năm phần kia…” Viêm Đế thở dài, “Trên thực tế, ngươi có điều động nổi toàn bộ quân đội hay không, thì phải trông vào bản lĩnh của ngươi thôi.” Nói rồi Viêm Đế đứng dậy, “Ta đi chế thuốc giải cho A Hành.”
Viêm Đế vừa ra ngoài, A Hành đã tóm chặt lấy tay Xi Vưu lắp bắp hỏi: “Viêm Đế… Viêm Đế nói có… có thật không? Viêm Đế là Thần Nông thị y thuật đứng đầu thiên hạ, sao có thể không chữa được cho mình chứ?”
Xi Vưu thản nhiên nói: “Để trị bệnh cứu người, ông ta phải nghiên cứu dược tính, nếm qua quá nhiều chất độc, nhiều loại thuốc hỗn tạp tích tụ trong cơ thể ông ta, cứ thế bào mòn sức khỏe, hai năm nay, hẳn ông ta lại nếm những loài cây cỏ độc không tên, tuy đã giải trừ chất độc vốn có của chúng, nhưng cỏ độc lại khơi dậy độc tố tích tụ trong người suốt mấy ngàn năm, giờ đây vạn độc cùng phát, chẳng thuốc nào trị nổi.”
“Vậy cũng phải có cách gì chứ?”
Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, khẽ vuốt tóc nàng rồi lặng lẽ lắc đầu.
A Hành đột ngột buông tay Xi Vưu, chạy ra khỏi phòng, nàng ngẩng đầu nhìn trời, ra sức hít vào thật sâu nhưng vẫn thấy tức thở.
Bao năm nay ba nước kết thành thế chân vạc , trăm họ được thái bình yên ổn là nhờ Viêm Đế đức cao vọng trọng, quy tụ được lòng người thiên hạ, dù hùng tài đại lược như phụ vương cũng không dám làm trái ý trời, nhưng nếu Viêm Đế chết đi rồi… A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa.
Trên sườn núi xa xa, ánh tịch dương đã nhuộm vàng những cánh rừng trùng điệp, A Tệ đang nô đùa với hươu sao, một bên rượt một bên chạy, một bên trốn một bên nấp, tiếng kêu vui vẻ vang khắp núi rừng.
A Hành ngơ ngẩn lần theo dấu chân chúng tới sơn cốc xanh biếc thì mất dấu, chẳng rõ A Tệ và hươu sao đã đi đâu.
Nàng ngồi trên triền núi, dõi mắt nhìn về phía trời Tây đỏ rực ráng chiều.
Ánh tịch dương đang từ từ lịm tắt, bây giờ là thời khắc bình yên đẹp đẽ sau cùng.
Nàng tiện tay ngắt hai chiếc lá đặt lên môi làm kèn thổi, tiếng kèn réo rắt truyền đi trong sơn cốc.
Có người lần theo tiếng kèn tới ngồi cách đó không xa, nhưng A Hành chẳng hề để ý, chỉ mê mải thổi kèn.
Thổi hết một khúc, nàng mới ngoảnh lại, nhận ra Viêm Đế đang lặng lẽ ngồi bên mấy nấm mộ.
Gió chiều lồng lộng, cả biển hoa xanh biêng biếc dập dờn lay động như những ngọn sóng nhấp nhô, bóng dáng Viêm Đế cũng lúc mờ lúc tỏ.
A Hành bước tới ngồi xuống bên cạnh Viêm Đế.
Viêm Đế dõi mắt ngắm tà dương, mỉm cười: “Cô hơi giống một người bạn của ta, không phải giống ở dung mạo, mà giống ở một vài cử chỉ.”
A Hành im lặng, mê mải ngắm hoàng hôn.
“Bà ta tên Tây Lăng Luy, tuy bây giờ rất ít người biết cái tên đó, nhưng hơn ba ngàn năm trước, bà ta là nữ tử nổi tiếng nhất đại hoang, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, phụ vương ta từng sai huynh trưởng ta tới cầu hôn.”
A Hành hỏi: “Bà ấy có nhận lời không?”
Viêm Đế lắc đầu: “Không, nếu bà ta nhận lời thì có lẽ huynh trưởng ta đã trở thành Viêm Đế.”
A Hành lại hỏi: “Vậy vợ ngài là người như thế nào?”
Nghe nàng hỏi, Viêm Đế chỉ cười buồn: “Cô thật rất giống bà ta. Rất nhiều năm về trước, A Luy cũng từng hỏi ta câu này, trước bà ấy chưa ai quan tâm tới chuyện đó, sau bà ấy lại chẳng ai dám hỏi chuyện đó nữa, cô là người thứ hai hỏi ta câu này đấy.”
Viêm Đế dịu dàng đặt tay lên mộ vợ, vẻ mặt chan chứa tương tư đằng đẵng, “Ta từ nhỏ linh lực thấp kém, pháp thuật không cao, tướng mạo lại chẳng lấy gì làm xuất chúng nên không được phụ vương xem trọng, các anh em không mấy khi chơi cùng, ta cũng chỉ thích loay hoay trồng hoa trồng cỏ một mình. Ngoài thành Chỉ Ấp có một dòng sông tên Tể Hà, hai bên bờ sông là nơi ở của những người linh lực thấp kém trong Thần tộc, bọn họ không có khả năng làm quan, cũng chẳng hề tòng quân, đành trông vào chút linh lực đó mà buôn bán nhì nhằng để kiếm sống thôi, trong số những người ấy có một cô gái bán hoa rất thích dùng linh lực trồng ra các loài hoa xanh biếc, có mẫu đơn xanh, phù dung xanh, phong tín tử xanh…”
Viêm Đế khẽ vuốt ve đóa sơn trà xanh bên cạnh, “Lần đầu tiên ta gặp nàng là vào một buổi mai ẩm thấp, ta ra bờ sông hái thảo dược còn nàng đi múc nước, trên mình còn vận một chiếc váy dài nền trắng hoa xanh, bên tóc mai còn cài một đóa hoa sơn trà biêng biếc. Lúc đó ngoài bờ sông rất vắng người, hai ta mỗi người đứng ở một bên bờ trông sang nhau, đột nhiên nàng hé miệng cười khiến ta hoảng hốt chẳng dám nhìn lâu, hấp tấp cầm cuốc lên cuốc đất, kết quả cuốc phải chân mình, làm nàng bật cười khúc khích. Ta phải nằm trên giường tĩnh dưỡng suốt một tháng, cũng chẳng hiểu sao vết thương vừa khỏi, ta liền tính toán lựa đúng lúc nàng đi múc nước để ta bờ sông, thoạt đầu mấy tháng một lần, sau dần dà mấy ngày lại ra một lần, sau nữa thì ngày ngày ta đều ra hái thảo dược, nhưng chẳng dám bắt chuyện với nàng. Hồi còn niên thiếu ta vốn rất nhút nhát hướng nội, hễ trông thấy nàng là tim đập chân run, đến nhìn cũng chẳng dám nhìn nhiều, chúng ta cứ thể ở hai bên bờ trông sang nhau mà chẳng trao đổi câu nào cả. Ba năm sau phụ vương lệnh cho ta theo anh trai tới Tây Lăng gia cầu hôn, vì A Luy rất giỏi nuôi tằm, mà ta lại trồng được một gốc dâu bích ngọc, phụ vương cho rằng ta có thể giúp anh lấy lòng A Luy, bèn sai ta đi cùng. Lần cầu hôn đó thất bại thảm hại, anh trai ta bị A Luy xoay cho khóc dở mếu dở, nhưng ta với bà ấy lại thành bạn thân, A Luy còn rủ ta cùng tới đại hoang chơi, đương nhiên ta liền nhận lời ngay, sau này chúng ta quen thêm cả A Mi hát hay múa dẻo, ba người kết thành huynh muội. Trong ba người ta lớn tuổi nhất, nhưng A Luy lại táo tợn nhất, luôn đầu têu nhưng việc ta chẳng bao giờ dám nghĩ đến.”
Viêm Đế lắc đầu cười, vẻ phóng khoáng lồng lộng trên vầng trán rộng, phấn chấn kể tiếp, “Đó là những tháng năm sôi nổi nhất đời ta, đến ta cũng chẳng dám tin mình có thể rượu say gây sự, ẩu đả đánh nhau như thế nữa. Ba người chúng ta còn hẹn ‘sẽ mãi mãi ở bên nhau, mãi mãi vui vẻ như hiện thời’. A Luy cao giọng nói nếu ai vi phạm bà ấy sẽ phạt người đó. Nhưng khi bà ấy gặp gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó, chính bà ấy lại vi phạm đầu tiên. Hôm bà ấy đi, chúng ta cùng ngồi trên triền núi ngắm tà dương như thế này, ta thổi một khúc, A Luy hát còn A Mi múa. Ta chưa thổi hết bài, A Mi cũng chưa múa hết điệu thì A Luy đột ngột nói và ấy phải đi, phải đi tìm gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó. A Mi vô cùng giận dữ, đùng đùng bỏ đi. Ta tiễn A Luy, bà ta hỏi ta đã phải lòng cô nương nào chưa, đã có người mà mình muốn ở bên suốt đời hay chưa, khiến ta sực nhớ tới nữ tử áo xanh bên bờ Tề Hà kia. A Luy nói với ta, ‘Nếu huynh thích nàng thì nên bày tỏ lòng mình ngay đi, lẽ nào huynh không sợ nàng sẽ lấy người khác ư?’ Nghe bà ta nói, ta đột nhiên phát hoảng lên, lập tức quay về, chẳng kịp từ biệt A Mi nữa.”
Tuy biết sau cùng hai người kết thành chồng vợ nhưng A Hành vẫn hồi hộp hỏi, “Ngài có tìm được bà ấy không? Bà ấy vẫn ở bên bờ Tể Hà chứ?”
“Nửa đêm ta về tới bờ sông, chờ mãi đến bình minh mà chẳng gặp được nàng. Đóa hoa xanh biếc bên bờ vẫn bừng nở trong gió nhưng nữ tử cài hoa chẳng biết đã đi đâu. Ta vừa thất vọng vừa buồn bã, ngơ ngẩn ngồi bên sông suốt từ sáng đến tối như kẻ mất hồn, mãi tới khi đêm buông tối mịt, ta ngoảnh lại mới nhận ra nàng đang đứng phía sau, đóa hoa tang xanh biếc cài bên mái tóc, rưng rưng nước mắt nhìn ta. Thấy vậy, ta ngỡ người nhà nàng qua đời, lòng như lửa đốt, quên khuấy mất chúng ta chẳng quen biết gì nhau, thế nên câu đầu tiên ta nói với nàng là ‘cô đừng quá đau buồn, sau này ta sẽ chăm sóc cho cô.’ Nàng nhoẻn cười gỡ đóa hoa tang ném xuống sông, ‘hai mươi năm nay chẳng thấy ngươi xuất hiện, ta cứ tưởng ngươi đã xảy ra chuyện rồi.’ Bấy giờ ta mới hiểu thì ra nàng cài hoa để tang ta.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó dĩ nhiên chúng ta còn phải trải qua rất nhiều sóng gió, phụ vương ta nhất quyết không đồng ý, viện cớ thân phận nàng quá thấp hèn, may có Xích Thủy thị giúp đỡ, ghi tên Thính Yêu vào tộc phả, nhờ đó nàng mới được gả cho ta dưới thân phận Xích Thủy thị.” Viếm Đế mìm cười vuốt ve tấm bia mộ.
“Thính Yêu giống như những đóa hoa dại trên triền núi này vậy, thoạt nhìn yếu ớt mong manh nhưng mưa to gió lớn đến mấy cũng chẳng vùi dập nổi, tiếc rằng chính ta lại hại chết nàng. Thể trạng Thính Yêu không tiện mang thai sinh nở nhưng ta thân làm Viêm Đế, nhất định phải có con nối dõi, thế nên nàng vì ta mà mang thai hết lần này sang lần khác, lúc sinh được Du Võng thì thân thể không chống chọi nổi nữa.” Viêm Đế ngả đầu vào bia mộ vợ, khẽ thì thầm: “Người người đều ca tụng ta y thuật quán tuyệt thiên hạ nhưng ta không cứu nổi nàng, chẳng cứu sống được Nữ Oa, cũng chẳng chữa khỏi cho Dao Cơ, một thầy thuốc vô dụng như ta chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn họ từng người từng người chế đi trước mắt mình, A Luy, muội nói xem liệu Thính Yêu có oán trách ta không?”
A Hành biết tinh thần Viêm Đế đang rối loạn nên mới lầm lẫn giữa mình và mẹ, nàng đành nín thinh không dám lên tiếng, sợ Viêm Đế bị kích động.
Chỉ nghe Viêm Đế lẩm bẩm nói: “A Luy, ta là kẻ ích kỷ vô cùng! Đã biết sau khi ta chết sẽ có rất nhiều người đau khổ nhưng lại thầm mong mình chết cho mau, lúc Dao Cơ chết đi, ta chỉ muốn theo con bé quách cho rồi, có vậy ta mới được đoàn tụ cùng Thính Yêu. Người trong thiên hạ cứ ngỡ Viêm Đế đau buồn thành bệnh chỉ là nói phóng đại, có ai biết từ sau khi Thính Yêu ra đi, ta đã đổ bệnh, bệnh hơn ngàn năm nay rồi.”
Viêm Đế nắm lấy tay A Hành, “Từ khi ta lên làm Viêm Đế, chúng ta chẳng còn thư từ qua lại gì, nhưng lúc Dao Cơ ra đi muội lại gửi thư khuyên ta đừng đau buồn quá độ, phải biết rằng ta không chỉ là chồng của một người phụ nữ, cha của ba đứa con gái mà còn là Viêm Đế của toàn thiên hạ! Điều này sao ta không hiểu chứ? Nếu không hiểu, năm xưa ta sẽ không phản lại lời thề với Thính Yêu trong đêm tân hôn mà lên ngôi kế vị trở thành Viêm Đế, cũng sẽ không thể gắng gượng hết năm này sang năm khác tới tận hôm nay. Nhưng ta mệt lắm rồi, A Luy ạ! Lần này độc phát, ta đã nghĩ: vậy là muội không thể lấy đạo lý ra khuyên nhủ ta được nữa, ta nhất định phải chết rồi! A Luy, ta với muội tình như anh em, nhưng vì ta là Viêm Đế nên muốn gửi một bức thư cũng phải tránh tránh né né, Thính Yêu cũng vì ta là Viêm Đế mà mất sớm. Đời ta từ khi đăng cơ tới nay, tính kỹ lại những ngày vui vẻ chẳng được bao năm, sinh mệnh dài đằng đẵng mà niềm vui lại hiếm hoi, ta mệt lắm rồi, chỉ muốn nghỉ ngơi mà thôi, ta ích kỷ nên chỉ muốn nghỉ ngơi thôi…”
A Hành ròng ròng nước mắt, khẽ an ủi: “Ngài đừng ngại, cứ nghỉ ngơi đi, ngài đã gắng gượng vì muôn dân Thần Nông bao nhiêu năm nay rồi, chẳng ai nỡ trách ngài ích kỷ đâu.”
Đột nhiên nàng trông thấy Xi Vưu đang chạy như bay tới, người chưa đến mà linh lực đã đến trước, vây quanh bảo vệ cho Viêm Đế, vô số đóa hoa trắng li ti bỗng xuất hiện bao phủ lấy người đứng đầu Thần Nông quốc, linh thức của Viêm Đế cũng theo đó mà từ từ bình ổn, ông ngủ thiếp đi.
Xi Vưu vặn hỏi nàng: “Cô nói gì với ông ta thế? Bây giờ ông ta không chịu được kích động mạnh đâu.”
A Hành buồn rầu đáp: “Ta không nên tò mò hỏi những chuyện liên quan tới Viêm Hậu mới phải.”
Xi Vưu chăm chú nhìn nàng: “Sao cô lại để lộ dung mạo thật ra rồi?”
A Hành nghe nói mới sờ lên mặt, “Vừa nãy Viêm Đế nhắc tới mẹ ta khiến ta bất giác nghĩ tới hình ảnh mẹ mình lúc trẻ, chắc bởi thế nên Trụ Nhan hoa mới biến gương mặt ta trở lại như cũ.” Hèn chi tâm trạng Viêm Đế kích động như vậy, hóa ra đã lầm A Hành là mẹ của nàng.
“Tháng tư hàng năm, khi hoa đào nở đầy trên sườn núi là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc, mọi người đều tụ tập dưới gốc đào hát tình ca tìm người thương. Từ sang năm trở đi, cứ đến tháng Tư, ta sẽ chờ cô dưới cội hoa đào ở Cửu Lê, không gặp không về.”
A Hành trằn trọc suốt đêm không chợp mắt. Trời vừa hửng sáng nàng đã trở dậy, thấy người mệt mỏi vô cùng, nhưng tinh thần lại rất tỉnh táo, không hề buồn ngủ chút nào.
Thấy Viêm Đế đang ngồi dưới hành lang đẽo tượng gỗ, nàng bèn bước lại ngồi đối diện với ông, nhìn ông lão hiền từ trước mặt, nàng không sao chấp nhận nổi việc con người đang gìn giữ sự yên bình cho địa hoang này lại sắp từ giã cõi đời.
Viêm Đế lên tiếng: “Tối qua ra thất thố trước mặt tiểu cô nương, khiến cô phải chê cười rồi.”
A Hành gỡ Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, phân trần, “Bá bá, con là con gái của Tây Lăng Luy, tên thật là Hành, mẹ con gọi con là Hành nhi.”
Viêm Đế chăm chú nhìn A Hành hồi lâu rồi từ từ dời mắt nhìn sang Trụ Nhan hoa trong tay nàng, A Hành nhoẻn miệng cười, gài lại đóa hoa lên búi tóc, “Cái này con thắng được bên chỗ dì Mi đó.”
Viêm Đế phì cười, “Nghe nói Tây Vương Mẫu giam con suốt sáu mươi năm, thật không ngờ A Mi về già lại đâm ra khó tính, động tí là cáu kỉnh.” Nói rồi Viêm Đế ngẩn người ra, tắt hẳn nụ cười, “Lần cuối ta gặp A Mi là hôm ta thành hôn, nào ngờ một lần chia tay đã hơn hai ngàn năm rồi, bà ấy có khỏe không?”
A Hành nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Khỏe lắm ạ, bà ấy thường đứng một mình bên vách núi ngắm hoàng hôn, a, phải rồi, bà ấy rất thích làm người gỗ, tạo ra rất nhiều cung nữ gỗ.”
Viêm Đế chăm chú đẽo một con chim gỗ, “Là ta và mẹ con dạy A Mi làm người gỗ đó, bà ấy thích một con chim gỗ biết hót líu lo nhưng lúc ấy không đủ linh lực để tạo ra nó, cứ năn nỉ đòi ta và A Luy làm hộ mình.”
Sợ khơi lại chuyện xưa, A Hành chẳng dám hỏi tiếp, vội chuyển chủ đề: “Xi Vưu đâu rồi ạ?”
Viêm Đế đáp: “Hắn vẫn đang lăng xăng trên mấy chóp núi bày bố trận pháp gì đó,ta đoán hắn định dựa vào khí đất thế trời để kéo dài mạng sống cho ta. Tuy Xi Vưu chẳng học gì về trận pháp nhưng trời sinh hắn đã nhạy cảm với ngũ hành linh khí, tự có cách bày binh bố trận riêng của mình.”
Đang nói chuyên thì Xi Vưu trở về, thấy thứ Viêm Đế cầm trong tay, hắn cau mày: “Định làm người gỗ à? Ông còn có linh lực hao phí vào những trò này nữa sao? Để ta giúp ông một tay.”
Viêm Đế khước từ: “Ta muốn tự tay làm lấy.”
Xi Vưu lại nói: “Trên đỉnh Tử Kim dồi dào linh khí hơn đỉnh Tiểu Nguyệt, ông nên chuyển lên đó ở thì hơn.”
“Ta muốn ở lại đây.”
Xi Vưu cười phá lên, “Lão già này đến lúc sắp chết mới khá được một chút, trước đây chưa bao giờ nghe ông nói mình muốn cái gì, lúc nào cũng lải nhải là muôn dân nào là trăm họ! Ông xem, nói ra điều mình muốn có gì khó khăn đâu, có phải là thoải mái hơn suốt ngày cứ canh cánh lo cho thiên hạ không?”
Viêm Đế cũng bật cười vỗ đầu Xi Vưu: “Con khỉ nhà ngươi! Thuốc của A Hành để trong nhà kìa, đi sắc đi.”
“Ta nói bao nhiêu lần rồi? Đừng có vỗ đầu!” Xi Vưu vừa cau nhàu vừa vào phòng lấy thuốc ra, ngồi chồm hỗm bên khe suối sắc thuốc.
Các vị thuốc phải được bỏ vào sắc theo phân lượng và trình tự nghiêm ngặt, Xi Vưu thường ngày vẫn qua loa đại khái, ấy vậy mà giờ đây lại hết sức chăm chú cẩn thận.
A Hành nhìn hắn loay hoay, lòng vừa cảm động vừa e sợ.
Viêm Đế cười hỏi nàng: “Con đang nghĩ gì đó?”
“Có gì đâu ạ.” A Hành cúi đầu đáp.
Viêm Đế lại nói: “Xi Vưu thích con, con thấy sao?”
A Hành hốt hoảng ngẩng lên, chối bay chối biến: “Xi Vưu đùa đấy mà, hắn nhất thời ham vui thích lạ thôi.”
Viêm Đế nhìn Xi Vưu, vẻ hiền từ mà lo lắng hệt như cha già nhìn đứa con trai, “Con nhầm rồi, hắn là kẻ thành thật nhất trên đời này đấy, tình cảm của hắn xuất phát từ đáy lòng, không bợn chút tạp niệm, đó là tình cảm chân thành tha thiết không gì sánh nổi đâu.” Vừa khéo một đôi chim én bay ngang đầu họ, Viêm Đế chỉ tay nói tiếp: “Nhìn đôi én kia có vẻ rất hời hợt, chỉ ngày ngày nô giỡn, chưa từng hứa hẹn suốt đời suốt kiếp bên nhau nhưng chúng vẫn khăng khít cả đời không chia lìa, còn cha con tổ chức đám cưới linh đình đón mẹ con về, thề thốt trọn đời kết tóc, nhưng bao năm nay ông ta đối với bà ấy ra sao?”
A Hành ngây người nhìn đôi én bay xa dần, hồi lâu mới nói nhỏ: “Con sống ở Cửu Lê tộc một thời gian, phát hiện tín điều của họ là ‘con người chỉ sống ở hiện tại’, họ quan niệm chỉ cần vui vẻ trước mắt là được, dù mai này có chết ngay cũng chẳng sao, nhưng từ nhỏ tới lớn, cha lại dạy chúng con phải suy nghĩ kỹ rồi mới hành động, làm bất kỳ việc gì đều phải tính đến lợi ích lâu dài, không được ham vui cái trước mắt, vậy rốt cuộc thế nào mới là đúng đây?”
Viêm Đế nghĩ ngợi một hồi đoạn đáp: “Cha con nói cũng không sai, ở vào vị trí của mình, ông ấy buộc phải như vậy. Có điều bao năm nay ta vẫn luôn hối hận vì mình không gần gũi Thính Yêu nhiều hơn nữa, ta luôn cho rằng sau này còn rất nhiều thời gian để bù đắp cho nàng, nhưng chuyện trên đời ai mà lường nổi chứ, chúng ta chỉ có thể nắm giữ được hiện tại mà thôi, dù là thần tiên cũng chẳng biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì đâu.”
A Hành trầm ngâm suy nghĩ.
“Cô uống thuốc đi.” Xi Vưu bưng thuốc lại cho nàng.
A Hành uống hết thuốc liền nhoẻn miệng cười ngọt lịm: “Cảm ơn ngươi.”
Hiếm hoi lắm mới thấy A Hành dịu dàng vui vẻ với mình, Xi Vưu kinh ngạc đến đờ cả người ra.
Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vui Viêm Đế, Viêm Đế nói: “Du Võng và Mộc Cận đang lên núi, Xi Vưu, ngươi đưa A Hành vào trong núi đi, bọn chúng chưa biết bệnh tình của ta, ta muốn ngồi đợi chúng một mình.”
A Hành hỏi nhỏ: “Mộc Cận là ai thế?”
Đối với những chuyện này Xi Vưu rất hờ hững, chỉ trả lời ngắn gọn: “Con gái nuôi của Viêm Đế.”
“A, vậy cũng là vương cơ của Thần Nông, hèn chi nghe nói Thần Nông có bốn vị vương cơ, ta còn tưởng là lời đồn nhảm.”
Xi Vưu dắt A Hành lên đỉnh Bạch Tùng.
Đỉnh Bạch Tùng rất đẹp, thông trắng mọc đầy trên vách núi, hình dáng đủ vẻ, trong lúc rong chơi, cứ đi một bước lại thấy một khung cảnh khác nhau, đẹp không bút nào tả xiết.
Nhưng như vậy cũng chẳng có gì là lạ, điều khiến người ta kinh ngạc nhất chính là Xi Vưu, dường như hắn được trời ban cho khả năng thông thuộc núi rừng, chỗ nào có suối nước để uống, chỗ nào có quả dại để ăn, chỗ nào có thể gặp phải gấu… hắn đều biết hết, tựa như hắn là hóa thân của ngọn núi này vậy.
Đi mãi, hai người khát khô cả cổ, Xi Vưu bèn dắt nàng tới bên suối.
A Hành cúi xuống uống mấy ngụm nước, rửa qua mặt mũi rồi quay lại nhìn Xi Vưu, ánh mặt trời chính ngọ xuyên qua tán lá rừng rọi xuống khiến thảm rêu biếc bên bờ suối rực lên xanh ngời. Xi Vưu ngồi chồm hỗm trên tảng đá, tư thế vô cùng bất nhã nhưng lại toát lên vẻ thoải mái và uy nghiêm rất riêng của mãnh thú. Hắn nhoẻn miệng cười với A Hành, ánh mắt sáng rỡ khiến tim nàng bất giác đập rộn lên, không dám nhìn thẳng vào hắn, đành ngoảnh đầu đi, tiện tay cởi giày nhúng chân xuống suối, hai chân vung qua vẩy lại nghịch nước.
Xi Vưu nhảy đến ngồi bên cạnh, cùng vung vẩy chân nghịch nước với nàng.
Ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá chiếu xuống dòng suối thành những vệt nắng lung linh, Xi Vưu mải mê vung chân đá những đốm nắng trên mặt nước hệt như một đứa trẻ, mỗi lần đá trúng lại phá lên cười sung sướng, tựa hồ những buồn lo về việc Viêm Đế bệnh nặng sắp qua đời chẳng hề ảnh hưởng gì tới hắn.
Nỗi mệt mỏi và sợ hãi trào lên từ tận đáy lòng A Hành, nàng vô tình ngả người dựa vào vai Xi Vưu.
Xi Vưu khẽ hỏi: “Sao thế?”
A Hành hỏi lại hắn: “Viêm Đế còn được bao lâu nữa?”
“Bệnh của ông ấy càng về cuối sẽ càng đau đớn, vạn độc xâu xé bên trong, nhức nhối đến tận xương tủy, khó mà chịu đựng được, càng đi sớm thì càng đỡ chịu khổ, nhưng nhìn bề ngoài ông ta có vẻ thấu triệt tất cả, thật ra lại chẳng bỏ được gì cả, nhất định sẽ vì con dân của mình mà gượng sống đến khi nào không gắng nổi nữa mới thôi.”
“Vậy rốt cuộc có thể gắng gượng bao lâu?”
“Chẳng biết nữa, có lẽ là ba năm, có lẽ là năm năm, nhưng dù chúng ta dùng linh lực kéo dài mạng sống cho ông ấy thì cũng không được quá mười năm đâu.”
“Xi Vưu, ta thấy mệt mỏi lắm, ta rất sợ.” Có lẽ non nước nơi này quá đỗi hữu tình, cũng có thể bờ vai Xi Vưu quá vững chãi nên lần đầu tiên, A Hành mới thổ lộ tâm tư của mình. Một khi chiến tranh bắt đầu, những kẻ đầu tiên bị cuốn vào chính là đám con cháu vương tộc như họ.
Xi Vưu áp mặt vào tóc nàng: “Nếu có mệt thì cứ tựa vào vai ta mà nghỉ ngơi, nếu cô sợ thì cứ núp vào lòng ta, để ta bảo vệ cho cô.”
Cảm nhận được hơi thở ấm áp của Xi Vưu, nàng chợt thấy lòng bình yên lạ, “Nếu ta dựa lâu quá, liệu ngươi có mệt không, có bực mình không?” Dường như bờ môi Xi Vưu lướt nhẹ trên tóc nàng rồi kề sát vào tai nàng nói nhỏ, “Không đâu, A Hành, lẽ nào đến giờ cô vẫn không hiểu ư? Ta cam lòng làm bất cứ chuyện gì vì cô.”
Như được vầng dương rạng ngời ấm áp rọi vào tận đáy lòng, cả người A Hành nóng bừng lên, bao nhiêu năm mệt mỏi lo âu đều tan biến cả. Suốt đêm thao thức, cơn buồn ngủ bây giờ mới dâng lên, nàng như con mèo nhỏ, ngáp một cái thật dài, “Buồn ngủ quá.” Nói rồi nàng ngả người nằm xuống phiến đá, Xi Vưu cũng nằm xuống theo. Hai người nằm cách nhau một quãng, giữ khoảng cách thân thiết mà không thân mật. A Hành nghe lòng bình yên lạ lùng, dường như mọi hiểm nguy gian khổ đều đã có Xi Vưu che chắn, lúc này đây, dù trời long đất lở, cũng có một người ở bên bảo vệ cho nàng.
Gió núi hây hẩy, tiếng suối reo róc rách theo gió đưa lại, càng làm nổi rõ sự yên ắng của núi rừng, ánh nắng được lọc qua tán lá, rạng rỡ mà không hề lóa mắt, đem hơi ấm gieo sâu vào đáy lòng bọn họ. Tựa hồ chỉ cần khép mi mắt lại, có thể nghe thấy cả tiếng năm tháng chuyển vần, Xi Vưu cùng A Hành đều nhắm mắt nằm nghỉ như thể cùng cảm nhận cái tĩnh lặng của thời gian cùng sự bình yên của hiện tại.
Khi mặt trời đã khuất hẳn về Tây, A Hành mới chậm rãi mở mắt ra, chỉ thấy trước mặt một dải non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm, khói mây đỏ rực bảng lảng khắp nơi tạo thành những hoa văn thiên nhiên, cả bầu trời như biến thành một tấm gấm bảy màu tinh xảo, cánh én chao nghiêng bay lượn giữa tầng mây rực rỡ. A Hành nhìn ngắm đến ngây người hoa mắt. Trong lúc mơ mơ màng màng, nàng nghiêng đầu, vừa khéo bắt gặp một cặp mắt ranh mãnh đen thăm thẳm như trời đêm, mênh mông hun hút, long lanh mà nguy hiểm, A Hành chỉ biết ngẩn ngơ nhìn vào đôi mắt đó, quên hết thảy mình đang ở đâu, đêm nay là đêm nao.
Xi Vưu lặng lẽ sáp lại gần A Hành, bờ môi vừa chạm đến nàng, đột nhiên trong rừng vang lên tiếng quạ kêu quang quác. A Hành sực tỉnh ngồi phắt dậy, đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch nhưng vẫn cố lấy vẻ bình tĩnh nói: “Chúng ta về thôi.”
Xi Vưu thoáng sững ra rồi giận dữ ngửa cổ nhìn trời, gầm lên như dã thú, chỉ giây lát sau, đám chim thú trong rừng đều cuống cuồng bỏ chạy trối chết, chẳng bao lâu đã không còn bóng dáng, cả khu rừng lặng phắc như tờ, đến tiếng dế kêu cũng nín bặt.
Xi Vưu ngồi dậy đăm đăm nhìn A Hành, A Hành cũng vội né tránh ánh mắt hắn, rảo bước quay về Tiểu Nguyệt đỉnh, “Đi nào!”
Xi Vưu lặng lẽ theo sau nàng, đi một lúc lâu, thình lình hắn lên tiếng hỏi: “Bộ đồ đang mặc trên người ta là cô tự tay may đúng không?”
A Hành thoáng khựng lại, nàng không phủ định cũng không khẳng định, chỉ càng rảo bước nhanh hơn.
Xi Vưu cười toe toét, rảo chân đuổi kịp nàng rồi đắc ý nói: “Cô vừa chăm tằm vừa dệt lụa, vất vả hơn hai mươi năm, trên Ngọc sơn bao nhiêu cung nữ, ai mà chẳng biết. Ta đã hỏi rõ ràng từ lâu rồi.”
A Hành thẹn quá hóa giận, bực bội đáp: “Có gì to tát đâu? Chỉ là một chiếc áo thôi mà?” Dứt lời nàng chạy vụt đi, chảng thèm ngó đến Xi Vưu nữa.
Xi Vưu vội đuổi theo sau nàng, vừa đuổi vừa nói: “Ta sẽ mặc nó mãi mãi.”
Nghe vậy A Hành không nhịn nổi nhoẻn miệng cười, lại càng không dám nhìn mặt hắn, càng lúc càng chạy nhanh hơn.
A Hành thoăn thoắt băng qua cánh rừng như một chú hươu nhanh nhẹn, xông thẳng lên đỉnh Tiểu Nguyệt hệt một ngọn gió, vì chạy giữa đám cây cối um tùm, nàng sơ ý va phải một người, lập tức loạng choạng trượt ngã, suýt nữa thì trẹo chân, may sao đối phương kịp thời đỡ lấy.
A Hành ngẩng lên cười, “Cảm…”
Thấy người đứng trước mặt là Thiếu Hạo, tim nàng bỗng đập thình thịch, cả người nhũn ra, đỏ mặt tía tai ngây người tại chỗ.
Thiếu Hạo áy náy hỏi: “Cô nương không bị thương chứ?” Nói rồi y nhìn ra sau lưng nàng, mỉm cười gật đầu. Nụ cười của Xi Vưu lập tức tắt lịm.
Xi Vưu rảo bước tiến lại, một tay đỡ lấy A Hành, tay kia đẩy Thiếu Hạo ra, “Sao vương tử điện hạ lại tới Thần Nông sơn vậy?”
Thiếu Hạo chưa kịp đáp thì Du Võng cùng một thiếu nữ áo đỏ đã sánh vai nhau bước đến, A Hành đoán cô nương kia chính là Mộc Cận[1], con gái nuôi của Viêm Đế, quả là rực rỡ đẹp tươi như đóa hoa dâm bụt, hèn chi lấy tên là Mộc Cận.
[1] Mộc Cận có nghĩ là hoa dâm bụt. (ND)
Mộc Cận cười với Xi Vưu: “Vân Tang tỷ tỷ bị thương, may sao gặp được Thiếu Hạo điện hạ, điện hạ liền hộ tống Vân Tang tỷ tỷ về.” Chợt thấy Xi Vưu đang đỡ A Hành, nàng ta tắt hẳn nụ cười.
A Hành nhất thời sốt ruột, vội hỏi ngay: “Vân Tang thế nào rồi?”
Mộc Cận chòng chọc nhìn nàng, ánh mắt thấp thoáng địch ý: “Tên của vương cơ để cho ngươi gọi thẳng ra ư?”
Xi Vưu lạnh lùng xen ngang: “Tên vốn dùng để gọi.”
Mộc Cận bị bất ngờ liền nhìn chằm chằm Xi Vưu, rõ ràng rất ngạc nhiên vì gã Xi Vưu luôn thờ ơ trước mọi chuyện lại lên tiếng bênh vực A Hành, lệ từ từ dâng lên trong mắt nhưng vẫn bướng bỉnh cắn môi không khóc.
Du Võng chăm chú quan sát A Hành rồi từ tốn trả lời nàng: “Dọc đường gặp phải mấy tên Yêu tộc làm càn, vết thương cũng không có gì đáng ngại, chỉ cần nghỉ ngơi mấy tháng là khỏi thôi. Cô nương quen tỷ tỷ ta sao?”
A Hành gật đầu, lòng thầm thắc mắc, sao Vân Tang lại tới Cao Tân nhỉ? Mà sao lại vừa khéo gặp được Thiếu Hạo?
Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vai Du Võng, y bèn quay sang cười bảo mọi người: “Bữa tối đã chuẩn bị xong, phụ vương kêu chúng ta về.”
Trong phòng bày một bàn thức ăn đơn giản, Viêm Đế ngồi ghế đầu, bọn họ lần lượt thi lễ với Viêm Đế, Viêm Đế cũng chăm chú nhìn bọn họ, tâm tình có phần phức tạp. Hôm nay khéo sao bọn hậu sinh vãn bối nắm giữ cục thế thiên hạ tương lại lại tập họp trong căn nhà tranh vách nứa đơn sơ này, chẳng biết liệu mấy trăm năm nữa họ còn nhớ được ngày này hay không?
A Hành hỏi ngay: “Viêm Đế, con không đói, con muốn đi thăm Đại vương cơ được không ạ?”
Viêm Đế liếc Thiếu Hạo rồi đáp: “Con đi đi. Con nha đầu đó lớn rồi, rất nhiều chuyện nó không chịu nói với ta nữa. Con đi chuyện trò hỏi han nó cũng hay.” Rõ ràng ông đã nhận ra chuyện Vân Tang bị yêu quái đả thương chỉ là bịa đặt.
A Hành thi lễ rồi lui ra.
Đợi nàng ra khỏi cửa, Mộc Cận không dằn lòng được vội hỏi: “Phụ vương, cô ấy là ai thế ạ?”
Viêm Đế nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo, đoạn giải thích với Du Võng và Mộc Cận: “Là con gái em kết nghĩa của ta, từ khi muội ấy lấy chồng, vì thân phận của mình, ta phải giữ giới hạn, chúng ta rất ít khi qua lại nên các con chưa từng gặp cô ấy.”
Vẻ mặt Viêm Đế vô cùng cảm khái, hiển nhiên là lời thật lòng, ngay cả Thiếu Hạo suy nghĩ kín kẽ cũng phải tin tưởng, không hoài nghi thân phận A Hành nữa.
A Hành khẽ khàng bước vào phòng, trông thấy Vân Tang đang ngồi ủ rũ, ngơ ngẩn nhìn ra cửa sổ.
“Tỷ tỷ.” A Hành gỡ Trụ Nhan hoa ra, ngồi xuống bên cạnh Vân Tang.
Vân Tang bị bất ngờ tròn xoe mắt nhìn nàng, thoạt đầu còn bực bội không hiểu sao A Hành lại ở đây, nhưng thấy đóa hoa đào đẹp đẽ tươi mởn trong tay nàng, Vân Tang liền cầm lấy ngắm nghía một hồi, đoạn thở dài than: “Thì ra Xi Vưu đoạt lấy nó là để tặng muội.” Dứt lời lại gài hoa lên mái tóc nàng, “Thiếu Hạo đang ở trên núi, muội phải cẩn thận, đừng để lộ chân tướng.”
“Muội cũng vừa gặp y rồi.” Cả Trụ Nhan hoa cùng A Hành đều biến hình đổi dạng, “Tỷ tỷ, Thiếu Hạo cứu tỷ thế nào?”
“Ta gặp Nặc Nại rồi.”
“Chẳng phải y ở trong thiên lao ư?” A Hành kinh ngạc rồi sực hiểu ra, “Tỷ lên vào thiên lao của Cao Tân à?”
“Ừ.”
“Vậy tỷ gặp y rồi chứ?”
Vân Tang gật đầu.
“Tỷ nói cho y biết tỷ là ai chưa?”
Vân Tang gật đầu.
“Y nói sao?”
Vân Tang ngân ngấn nước mắt, chỉ chực òa lên, “Lúc mới trông thấy ta, y tỏ vẻ thờ ơ, luôn miệng giục ta mau trở ra, nhưng ta thấy rõ ràng y vừa ngạc nhiên lại vừa mừng rỡ. Ta bèn cố lấy can đảm nói thật với y rằng mình không phải Hiên Viên vương cơ Hiên Viên Bạt mà là Vân Tang, Thần Nông vương cơ. Vẻ mặt y…”
Vân Tang ròng ròng nước mắt, “Y không nói một lời, nhưng vẻ mặt y, vẻ mặt y… chuyển từ ngỡ ngàng đến kinh ngạc, từ kinh ngạc sang giận dữ, rồi từ giận dữ dần dần trở thành bi thương. Y trừng trừng nhìn ta, ánh mắt bi thương trống rỗng đó như nói lên rằng trái tim y đang chết dần chết mòn, lúc y nổi giận, ta vô cùng kinh hoàng sợ hãi, nhưng khi y bi ai nhìn ta như thế, ta lại thấy thà rằng y giận dữ, thà rằng ý cứ đánh ta chửi ta đi…”
A Hành hỏi: “Sau đó y nói sao?”
Vân Tang nức nở lắc đầu, “Chẳng nói sao cả, y từ đầu đến cuối không hé răng nửa lời, sau đó đám lính trong thiên lao đuổi kịp bao vây ta, giữa lúc sống chết cách nhau gang tấc, ta van xin y dù ghét ta hận ta thì cũng nói với ta một lời nhưng y dứt khoát ngoảnh đi quay mặt vào tường, như đang nhập định vậy. Ta vừa đánh nhau với binh lính vừa khẩn cầu y: ‘Nếu hôm nay ngươi không lên tiếng thì ra cứ ở lì tại đây’, về sau, về sau… y cuối cùng cũng nói một câu…”
A Hành nhẹ cả người, “Y nói gì?”
“Cút! Y bảo ta cút!”
Vân Tang khóc không ra tiếng, nghẹn ngào kể tiếp: “Lúc đó ta cũng nổi điên lên hét vào mặt y, ‘Ngươi đuổi ta cút, ta cứ không cút đấy.’ Có điều tuy ta có linh dược của phụ vương bảo hộ nhưng vẫn bị thương, cuối cùng bị quân lính bắt được. Khi ấy ta vô cùng hoảng hốt, nếu để Tuấn Đế biết được thân phận thật của ta, nhất định sẽ nổi lên một trận sóng gió to lớn, nhưng ta chẳng hề hối hận! May sao Thiên Hạo tới kịp, y rất nhanh trí, liền hạ lệnh cho tất cả thị vệ lui ra rồi hỏi ta rốt cuộc là ai, thấy ta không chịu hé răng, y nói, ‘Tuy ta không nhìn ta dung mạo thật của ngươi, nhưng ta nhận ra ngươi đeo mặt nạ Nhân Diện Tâm, trên đời này, chỉ có Luy Tổ trên Hiên Viên sơn mới dệt được thứ mặt nạ tinh xảo nhường này từ tơ Nhân Diện Tâm mà thôi, nghe nói bà ta cũng chỉ làm ra bốn chiếc, chia cho bốn người con, mặt nạ ngươi đang đeo lại là của nữ, hẳn là do Hiên Viên Bạt tặng cho.’ Ta càng nghe càng căng thẳng, đánh liều nghĩ, dù sao y cũng không thể lột mặt nạ ta ra được, chỉ cần ta không thừa nhận thì y đừng hòng biết được thân phận của ta, nào ngờ lúc đó Thiếu Hạo nói ra một câu khiến ta vô cùng cảm động.”
Vân Tang ngẩng lên nhìn A Hành, “Y nói rằng, ‘Hiên Viên Bạt là vị hôn thê của ta, bạn bè của nàng cũng là bạn bè của ta, ngươi đã không muốn người khác biết thân phận thì khỏi cần nói với ta, chỉ cần ngươi bảo nơi nào an toàn, ta sẽ phái người thân tín đưa ngươi đến đó.’”
A Hành thấy ngực cuộn lên, lại nghe Vân Tang khẽ thở dài, “Y quân tử như vậy, sao ta có thể ngờ vực được nữa? Thế nên ta nói y đưa ta về Thần Nông sơn, y nhận ra thân phận của ta ngay, trầm ngâm một lát rồi nói, chuyện này càng ít người hay càng tốt, y sẽ đích thân đưa ta về. Dọc đường y chẳng hề hỏi ta sao nửa đêm lại xông vào thiên lao của Cao Tân, về tới Thần nông cũng không nhắc gì đến nguyên nhân thật sự làm ta bị thương, tuy cha biết ta nói dối nhưng ông vẫn luôn yên tâm về ta nên chẳng hỏi nhiều, lỡ như ông biết ta đã làm gì, nhất định sẽ…”
Vân Tang cúi đầu, lấy khăn chậm nước mắt.
A Hành lặng thinh hồi lâu mới nói: “Tỷ tỷ, thật ta Nặc Nại vẫn quan tâm tỷ lắm đó.”
Vân Tang cười ảo não, “Ta tự làm tự chịu, muội khỏi cần an ủi.”
“Y chửi tỷ, bảo tỷ cút, thật ra là đang bảo vệ tỷ, cũng như lúc mới gặp luôn miệng giục tỷ đi mau đó thôi.”
Vân Tang còn thấy hiểu nhân tình thế thái hơn A Hành nhiều, nhưng vì lo nghĩ quá đâm ra rối loạn, lúc này nghe A Hành nói vậy, Vân Tang vẫn nửa tin nửa ngờ, đồng thời một ý nghĩ khác lại trỗi lên càng lúc càng rõ rệt. Nửa đêm có kẻ xông vào thiên lao tuy là chuyện nghiêm trọng nhưng cũng chẳng đến nỗi kinh động tới Thiếu Hạo, vậy mà y tức tốc kéo tới như thế, nhất định là vì Nặc Nại. Hẳn y đã nhận ra quan hệ giữa nàng và Nặc Nại không bình thường nên ngay từ đầu đã rất lễ độ khách sáo. Y bao che cho nàng không chỉ bởi nể mặt Hiên Viên Bạt, mà quan trọng hơn là vì Nặc Nại và Hy Hòa bộ sau lưng Nặc Nại nữa kia.
Vân Tang cúi đầu ngồi lặng, nhưng nét mặt dần dần tươi lên, A Hành chăm chú nhìn nàng, lòng thầm buồn bã, Vân Tang cẫn chưa biết bệnh trạng của Viêm Đế, đợi đến khi nàng biết được chẳng rõ còn đau khổ tới nhường nào.
Đột nhiên Vân Tang ngẩng lên, buồn buồn hỏi: “Muội sao thế? Sao trông muội âu sầu vậy?”
A Hành đứng dậy, “Muội ra xem bọn họ thế nào, chắc Thiếu Hạo sắp cáo từ xuống núi rồi.”
Vân Tang siết chặt tay nàng, “Thay ta cảm tạ Thiếu Hạo nhé.”
A Hành gật đầu, Vân Tang dường như định nói thêm gì đó nhưng trầm ngâm một hồi lại thôi, chỉ thở dài buông tay A Hành ra.
A Hành thả bước lững thững đi về phía sườn núi, bỗng Liệt Dương từ đâu bay lại lượn vòng vòng quanh nàng rồi lặng lẽ đầu xuống vai, tựa hồ cũng nhận ta tâm tình nàng đang trĩu nặng.
A Hành vỗ về nó: “Sớm muộn gì Vân Tang cũng biết bệnh tình của Viêm Đế thôi, lúc Dao Cơ tỷ tỷ chết đi, có lẽ Vân Tang ngỡ rằng mọi chuyện đã kết thúc rồi, bao nhiêu đau đớn đều trút ra bằng hết, nào ngờ… Bây giờ là lúc Vân Tang cần được Nặc Nại thông cảm và bỏ qua nhất, chỉ cần trong lòng y vẫn quan tâm tới Vân Tang, nhất định sẽ không nỡ để tỷ ấy phải cùng lúc gánh chịu hai nỗi đau, ắt hắn sẽ tới thăm tỷ ấy.”
Thấy Liệt Dương nghiêng đầu nhìn mình, A Hành bèn rút thẻ ngọc ra, dùng linh lực viết thư cho Nặc Nại, vừa viết được mấy chữ “Viêm Đế bệnh nặng…” sực nhớ tới lời Vân Tang từng nói, “Chuyện trong vương tộc lúc nào cũng phức tạp”, nàng liền khựng lại, trầm ngâm nghĩ ngợi.
Bệnh tình của Viêm Đế liên quan tới cục diện thiên hạ, lại dính dáng cả tới việc kế thừa đế vị ở Thần Nông nên đó là bí mật tối cao, đừng nói tới nước khác mà ngay cả những trọng thần trong nước như Chúc Dung, Hậu Thổ cũng không được biết. E rằng chính Vân Tang cũng chẳng thể nói với Nặc Nại về tình trạng của cha mình, A Hành sao dám tự tiện tiết lộ chuyện đó cho một viên tướng Cao Tân nắm giữ binh quyền kia chứ?
A Hành lặng cả người. Nếu là người thường, vào lúc đau khổ nhất khi cha lâm bệnh nặng, hẳn luôn khao khát có người yêu ở bên mình san sẻ, nhưng Vân Tang còn chẳng có quyền được tâm sự với Nặc Nại. Dù đau buồn đến đâu chăng nữa, Vân Tang vẫn phải vờ như không có chuyện gì, Nặc Nại cũng sẽ không thể nào hiểu được nỗi đau mà Vân Tang sắp phải gánh chịu.
A Hành đứng lặng hồi lâu đoạn xóa hết những câu liên quan tới Viêm Đế, chỉ nói chuyện hiểu lầm bắt nguồn từ lúc Nặc Nại nhận nhầm Vân Tang ở Ao Đột quán, giải thích cặn kẽ mọi việc đều là do Vân Tang nhất thời quá xúc động nên vô tình sơ suất, tuyệt đối không có ý lừa gạt. Khẩn cầu Nặc Nại bỏ qua cho Vân Tang.
Viêm Đế cảm tạ Thiếu Hạo lần nữa rồi sai Du Võng và Xi Vưu tiễn khách, Du Võng cùng Thiếu Hạo sánh vai nhau vừa đi vừa cười nói, Xi Vưu tụt lại phía sau mấy bước đã thấy Mộc Cận tung tăng bám theo, cứ ríu ra ríu rít níu lấy Xi Vưu hỏi chuyện trên tiệc Bàn Đào. Thấy Xi Vưu chẳng nói chẳng rằng, nàng ta cũng đã quen, bèn tự hỏi tự đáp tự tiêu khiển một mình.
Mọi người ra khỏi sơn cốc, bắt gặp A Hành đứng bên sườn núi lặng lẽ nhìn về phía xa xăm, Lang điểu trắng phau đậu trên vai nàng. Nghe thấy tiếng cười nói của bọn họ, nàng liền ngoảnh lại, giữa sắc chiều mênh mông, khói núi man mác, sương mù mờ mịt, dung mạo nàng khi tỏ khi mờ, nhưng nỗi bi thương thấp thoáng vẫn còn vương trên tay áo phất phơ.
Thiếu Hạo chợt nghe lòng rung động, cảm thấy cảnh tượng này quen quen nhưng nghĩ mãi không ra đã từng gặp ở đâu.
Xi Vưu rảo bước lại gần, Liệt Dương quác một tiếng bay tới đậu lên vai hắn. Mộc Cận chưa từng gặp qua con chim nào đẹp đẽ oai nghiêm như thế bèn giờ tay định vuốt ve, nào ngờ bị Lang điểu hung hăng mổ cho một nhát, may sao Mộc Vận rụt tay kịp nên không chảy máu, có điều vẫn rất đau. Thấy nàng nổi giận định đánh Liệt Dương, Xi Vưu liền lên tiếng cảnh cáo: “Đừng động vào nó.”
Mộc Cận uất ức: “Xi Vưu!”
Du Võng cùng Thiếu Hạo hành lễ từ biệt nhau, A Hành cũng bước tới nói với Thiếu Hạo: “Vương cơ nhà tôi chuyển lời cảm ơn tới ngài. Điện hạ, tôi nói với ngài mấy lời được không?”
Du Võng biết ý tránh sang bên, Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành nhưng nàng lờ đi như không thấy, chỉ đưa cho Thiếu Hạo một tấm thẻ ngọc, khẽ nói: “Phiền điện hạ giao bức thư này cho Nặc Nại tướng quân.”
Thiếu Hạo giơ tay đón lấy, “Cô nương yên tâm, ta sẽ tự tay đưa nó cho Nặc Nại.”
A Hành thi lễ cảm tạ, Thiếu Hạo đăm đăm nhìn nàng hổi lâu, lắc đầu, “Lạ thật, ta cứ cảm giác từng gặp cô ở đâu rồi.”
Nghe y nói, A Hành giật thót mình, may sao Thiếu Hạo chẳng truy cứu thêm, chỉ mỉm cười bước lên lưng Huyền điểu, chắp tay chào tất cả, “Các vị, hẹn ngày gặp lại.”
Dõi mắt nhìn theo Huyền điểu khuất sau tầng mây, Du Võng cảm phục thốt lên, “Hèn chi cả phụ vương cũng hết lời khen ngợi Thiếu Hạo Thanh Dương, mấy trăm năm trước gặp Thanh Dương, ta từng nghĩ trên đời này làm gì có vị thần nào sánh được với y. Hôm nay gặp Thiếu Hạo, ta mới thật sự tin rằng, Cao Tân và Hiên Viên có được bọn họ quả là may mắn!”
Mộc Cận khinh khỉnh nói: “Thần Nông chúng ta cũng có Xi Vưu!”
Du Võng thở dài, lời lẽ có phần thất vọng nhưng kỳ thực lại âm thầm vui sướng: “Tiếc rằng Xi Vưu không giống họ!”
“Không giống chỗ nào? Xi Vưu…” Mộc Cận ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên A Hành, vừa trò chuyện vừa đánh lộn với Lang điểu, lửa đỏ cuộn lên giữa những kẽ tay, rõ ràng chẳng buồn nghe Du Võng và nàng nói gì.
Mộc Cận tức tối giậm chân hét: “Xi Vưu, phụ vương dặn chúng ta tiễn Thiếu Hạo xong phải về ngay, Người còn có việc quan trọng dặn dò.”
A Hành buồn bã cáo từ Du Võng, “Điện hạ, tôi không tiện…”
Du Võng thân thiết nói: “Phụ vương dặn ta mời cả cô cùng về. Ngài nói cô là con gái của cô cô, hai ta cũng xem như anh em, ta phải gọi cô là gì đây?”
“Tôi tên A Hành.”
“Hành muội muội, muội cứ kêu ra bằng Du Võng, hoặc gọi ca ca cũng được.”
Lúc A Hành cùng bọn Du Võng về tới nơi, Viêm Đế đang ngồi một mình bên đống lửa, trông thấy họ bèn vẫy họ lại đó ngồi.
Viêm Đế bảo Du Võng cùng Mộc Cận: “Ta vốn định nói với Vân Tang cả thể, nhưng giờ nó đang bị thương nên đành tạm giấu một thời gian. Hai người các con phải nhớ, chuyện này liên quan tới an nguy của Thần Nông, chưa được phép của ta nhất định không được cho bất kỳ ai biết, Mộc Cận, con đã rõ chưa?”
Mộc Cận nghiêm mặt lại, cũng phảng phất mấy phần phong thái trầm ổn của Vân Tang, “Con chơi chung với Hậu Thổ từ nhỏ, tình cảm khăng khít nên phụ vương lo rằng con sẽ tiết lộ với y chứ gì. Xin phụ vương cứ yên tâm, tuy hằng ngày con có phần ngang ngạnh nhưng chẳng phải kẻ không biết nặng nhẹ đâu.”
Viêm Đế gật đầu, hiền từ nhìn Du Võng và Mộc Cận rồi nghiêm trang nói: “Ta trúng độc rồi, có lẽ chỉ sống được chừng dăm năm nữa thôi.”
Du Võng cùng Mộc Cận kinh hoàng tròn mắt nhìn Viêm Đế, như không tin nổi tai mình, nhưng họ hiểu Viêm Đế xưa nay chưa từng nói giỡn, trong mắt dần dần lộ vẻ kinh khiếp.
Viêm Đế chẳng nói thêm nữa, chỉ mỉm cười nhìn hai người như đợi cho bọn họ từ từ tiếp nhận sự thực đó.
Một lúc lâu sau, Mộc Cận bật cười khan, “Phụ vương, y thuật của người đứng đầu thiên hạ, làm gì có thứ độc nào người không giải nổi chứ?” Dứt lời nàng đưa mắt nhìn Xi Vưu như đợi hắn phụ họa với mình.
Xi Vưu chỉ lạnh lùng nói: “Sư phụ không còn được lâu nữa đâu.”
Mộc Cận sững người, nước mắt trào ra.
Du Võng gầm lên giận dữ, xông tới toan đánh Xi Vưu, “Người nói láo!”
“Du Võng!” Viêm Đế trầm giọng quát. Du Võng túm lấy cổ áo Xi Vưu, Xi Vưu vẫn giữ vẻ thờ ơ nhưng ánh mắt kiên nghị lại đăm đăm nhìn y như muốn nói, bây giờ là lúc Viêm Đế cần tới sự kiên cường của Du Võng nhất. Qua một hồi, Du Võng từ từ bình tĩnh lại, buông Xi Vưu ra rồi quỳ xuống trước mặt Viêm Đế khẽ gọi “Phụ vương.” Cả người y run lên lẩy bẩy vì phải kìm nén bi thương khiến A Hành cũng cúi đầu xuống không nỡ nhìn.
Tuy Mộc Cận vẫn chưa nén nổi bi thương nhưng thấy mọi người đều nghiêm trang chăm chú, tiếng nức nở của nàng cũng lịm dần, A Hành khẽ khàng dúi cho nàng một chiếc khăn tay.
Viêm Đế bảo Du Võng: “Thần lực của con thấp kém, lòng dạ lại quá yếu mềm, không quyết đoán, khó mà lãnh đạo nổi một tộc. Trước đây ta đã mấy lần định truyền ngôi cho người khác, nhưng lại e còn dẫn tới sóng gió lớn hơn. Dù sao con vẫn là trữ quân[2] danh chính ngôn thuận, dẫu dám Chúc Dung không phục cũng chẳng dám tùy tiện khởi binh tạo phản, nhưng nếu đổi thành người khác, có thể sẽ khiến Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy ngay.”
[2] Hoàng đế tương lai, thường dùng để chỉ thái tử. (ND)
Du Võng hổ thẹn đáp: “Con hiểu, tại con quá vô dụng, làm phụ vương phải lo nghĩ.”
Viêm Đế mỉm cười vỗ vai Du Võng, “Mẹ con còn không nỡ làm đau một bông hoa cọng cỏ, lúc bà ấy mang thai con, chúng ta thường nói chẳng hiểu con sẽ ra sao, mẹ con bảo ‘thiếp chẳng cần con thần lực cao cường, cũng chẳng cần con ưu tú xuất sắc, chỉ mong con nó ôn hòa lương thiện, cả đời bình yên là được rồi.’”
Du Võng rúng động toàn thân, ngẩn ngơ nhìn Viêm Đế như không tin nổi tai mình. Viêm Đế nói tiếp: “Ta vui lắm, mẹ con chắc hẳn còn vui hơn, con trai đã không phụ kỳ vọng của chúng ta, chẳng những ôn hòa lương thiện mà còn rộng lượng bao dung nữa.”
Khóe mắt Du Võng long lanh ánh lệ, y vội cúi đầu nghẹn ngào nói, “Con cứ tưởng, cứ tưởng phụ vương rất thất vọng về con.”
Viêm Đế lắc đầu, “Xưa nay ta chưa từng thất vọng về con, là ta không phải với con, buộc con phải làm con trai Viêm Đế, nếu con sinh ra trong một gia đình Thần tộc bình thường, hẳn sẽ hạnh phúc hơn bây giờ nhiều, có thể làm bất kỳ việc gì con muốn. Ta có lỗi với con, càng có lỗi với các tỷ tỷ con, tại ta khiến mẹ các con phải gánh vác trọng trách mà đáng lẽ bà ấy không nên gánh vác, cũng tại ta mà Vân Tang không thể làm những việc nó muốn, buộc phải làm Đại vương cơ Thần Nông. Có lẽ ta không phải một vị vua bất tài, nhưng ta lại chẳng thể làm một người chồng tốt, càng không thể làm người cha tốt.”
Du Võng không nén nổi nước mắt chan hòa, “Phụ vương, Người đừng nói thế, mẹ và chúng con đâu bao giờ oán trách Người.”
“Giờ đây ta lại sắp giao vận mệnh của cả Thần Nông tộc vào tay con, bắt con phải gánh trách nhiệm mà con không muốn gánh.”
Du Võng dập đầu, “Con nguyện sẽ dốc hết sức mình.”
Viêm Đế đặt cả hai tay lên vai y, ánh mắt ngập những âu lo, nhưng cuối cùng chỉ ra sức đè vào vai y như thể muốn ấn cho y nẳm rạp xuống, Du Võng gắng gượng ưỡn thẳng lưng, bất luận ra sao cũng không chịu khuất phục, tựa hồ trong lúc một người ra sức ấn xuống, một kẻ ra sức chống lại, đã tiếp nhận thứ gì đó.
Hồi lâu Viêm Đế lại nói tiếp: “Ta muốn phong cho Xi Vưu là Đốc Quốc đại tướng quân, con thấy sao?”
Du Võng liền đáp:”Xin nghe theo phụ vương sắp xếp.”
Viêm Đế chỉ Xi Vưu, bảo Du Võng, “Con mau dập đầu với hắn ba cái, thề rằng sẽ tin tưởng hắn suốt đời, không bao giờ ngờ vực, xin hắn thề cả đời này phò trợ cho con.”
Du Võng quỳ xuống trước mặt Xi Vưu, một tay chỉ lên trời, một tay hướng xuống đất thề: “Phụ vương ta ngồi đây, mẹ ta chôn cất ở đây, có cha mẹ chứng kiến, Thần Nông Du Võng ta xin thề vời trờ đất dù xảy ra bất kỳ chuyện gì, ta cũng sẽ suốt đời tin cậy Xi Vưu, không ngờ không vực, nếu trái lời thề thì cha mẹ không tha, trời đất đều trừng trị.” Nói rồi y liền dập đầu binh binh ba cái.
Xi Vưu chỉ thờ ơ nói, “Ta nhận lời, sẽ dốc hết sức giúp đỡ ngươi.”
Xi Vưu thề đơn giản đến nỗi chẳng giống thề thốt chút nào, nhưng Viêm Đế lại thở phảo nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng, ông tươi cười một tay kéo Du Võng, tay kia kéo Xi Vưu, đặt bàn tay hai người vào nhau, “Thần Nông tộc phải trông cậy vào các con rồi.”
Du Võng nắm chặt lấy tay Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nhìn hắn cười. Xi Vưu cũng cười tươi siết chặt tay y, dùng sức lắc lắc, Du Võng bèn thụi hắn một quả, “Sau này ta nhờ ngươi làm gì, ngươi đừng có bắt ta đi trộm rượu nữa nhé.” Lần này mới thật sự là lời thề giữa đôi bên, một khi đã siết tay thề, về sau dù núi đao biển lửa, huynh đệ cũng phải sát cánh bên nhau.
Viêm Đế mừng rỡ cười lớn, “Hôm nay chẳng cần hai con khỉ các ngươi đi ăn trộm, Mộc Cận, con vào nhà đem hết rượu ra đây.”
Đột nhiên Vân Tang sắc mặt tái xanh từ góc tối bước ra, mỉm cười lên tiếng, “Đừng quên phần con một chén chứ.” Rõ ràng những lời Viêm Đế nói vừa rồi nàng đã nghe thấy cả.
A Hành lập tức đứng dậy đỡ Vân Tang, lo âu nhìn nàng, Vân Tang bấm tay A Hành, tỏ ý rằng mình không sao, vẫn có thể chịu đựng được.
Ảnh hưởng thái độ thờ ơ của Xi Vưu cùng vẻ điềm tĩnh của Vân Tang nên tuy tâm trạng rất nặng nề, Du Võng và Mộc Cận vẫn giữ được vẻ bình thảnh, chuốc hết chén này sang chén khác, cười nói với Viêm Đế, tạm quên đi bệnh tình của ông.
Viêm Đế bước tới bảo A Hành: “Hành nhi, con đi với ta một quãng nhé, cho tỉnh rượu ấy mà.”
A Hành hiểu Viêm Đế có lời muốn nói, vội đứng dậy đỡ Viêm Đế đi về phía sơn cốc.
Từ khi nhận ra Xi Vưu thích A Hành, Viêm Đế luôn vô tình hoặc cố ý muốn tác hợp cho hai người, dù đứng trên địa vị của bậc cha chú hay vì lòng riêng của đấng quân vương thì mối duyên giữa Hiên Viên và Cao Tân đối với Thần Nông cũng vô cùng bất lợi, có điều cả ngày vui vầy cùng con cái, lòng tư lợi của đế vương đã nhạt đi nhiều, thậm chí, Viêm Đế còn có phần áy náy với A Hành.
Viêm Đế rút ra một cuộn thẻ ngọc đưa cho nàng: “Cái này tặng con, hy vọng một ngày nào đó nó có thể giúp được con.”
A Hành dùng linh thức xem qua, trông thấy mấy chữ lớn ngay trên đầu: “Thần Nông bản thảo kinh?”
“Đây là tâm huyết cả đời ta, coi như quà gặp mặt bá bá tặng con đi.”
“Sao bá bá không truyền cho Vân Tang tỷ tỷ?”
“Vân Tang không có thiên bẩm về mặt này, dù sao y dược cũng liên quan mật thiết tới sống chết, mà trong lòng Vân Tang lại luôn chống đối những điều đó. Hơn nữa đây chẳng phải vật tốt lành gì, bao nhiêu người nhăm nhe muốn đoạt lấy nó, nếu để lại cho Vân Tan, e rawngf*** dẫn tới mối họa sát nhân.”
Vẻ mặt A Hành nghiêm trang hẳn, nàng hiểu mình đang nắm trong tay tâm huyết cả đời của nhân vật đứng đầu thiên hạ, có thể lấy mạng tuyệt đại anh hùng dễ như trở bàn tay, cũng có thể dựa vào y thuật thần thông mà thao túng thiên hạ, bèn nhắc nhở Viêm Đế: “Nhưng con là con gái Hiên Viên Hoàng Đế!”
Viêm Đế mỉm cười: “Con cũng là con gái nghĩa muội Tây Lăng Luy của ta!”
A Hành thoáng do dự rồi nhận lấy cuộn thẻ ngọc: “Con tạ ơn bá bá!”
Viêm Đế nói: “Con đừng tạ ơn, còn chưa biết được là phúc hay họa đâu!”
A Hành quỳ xuống dập đầu với Viêm Đế, “Bá bá, con định sẽ rời khỏi đây ngay. Trên đời chẳng bức tường nào không thông gió, một khi thân phận con bị phát hiện, e rằng sẽ khơi dậy sóng to gió lớn, khiến Thần Nông tộc đang lúc rối ren này phải gánh thêm đại họa, lại khiến Xi Vưu gặp nguy hiểm, dù là vì bá bá hay vì Xi Vưu, con cũng nên đi sớm là hơn.”
Viêm Đế trầm ngâm nghĩ ngợi, A Hành bị cuốn vào vòng xoáy này một phần là do ông gây nên, vậy mà nàng vẫn luôn nghĩ cho ông, khiến Viêm Đế càng thêm thương xót nàng, nhưng cũng chỉ có thể thương xót mà thôi.
A Hành lại hỏi: “Bá bá có lời gì muốn nhắn với mẹ con không ạ?”
Viêm Đế đăm đăm nhìn về phía cuối trời, thần sắc như đang quay về những ngày tháng vui vẻ mấy ngàn năm trước, dẫu nét băn khoăn vẫn vấn vương trong mắt nhưng nụ cười đã trở nên phóng khoáng hào sảng, phảng phất dáng vẻ thời trai tráng, “Không cần đâu, những lời ta muốn nói bà ấy đều hiểu cả rồi.”
A Hành liền đứng dậy, “Bá Bá, vậy con đi đây, Xi Vưu vẫn còn ở đó, làm phiền bá bá từ biệt hắn giùm con.”
A Hành bước tới bên vách núi, cất tiếng gọi Liệt Dương và A Tệ.
“Cô định không từ mà biệt thật đấy à?”
A Hành ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu đứng dưới một trời sao lấp lánh, như bình thản, lại như đang bừng bừng lửa giận.
Nàng lặng người đi.
Bỗng có tiếng ho sù sụ vang lên, Vân Tang cưỡi hươu sao chạy tới, hổn hển bảo Xi Vưu: “Nếu ngươi thật lòng quan tâm A Hành thì nên để muội ấy đi đi. Thế lực của bọn Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ hết sức vững mạnh, bệnh tình phụ vương e rằng không giấu được bao lâu, trước đây bọn chúng cho rằng phải vài ngàn năm nữa mới xảy ra chuyện tranh quyền đoạt vị, nên dù dã tâm dã tâm lớn đến đâu cũng cố kìm nén, bây giờ mọi chuyện đột ngột thay đổi, nhất định chúng sẽ rối cả lên, tuy có thể nhất thời chưa dám ra tay với Du Võng, nhưng chúng chẳng kiêng nể gì ngươi đâu.”
Thấy Xi Vưu tỏ vẻ coi thường, Vân Tang nói tiếp: “Một mình ngươi đương nhiên không sợ nhưng hiện giờ trong tay ngươi chẳng có lấy một binh một tốt, ngươi không sợ kẻ nào đó muốn nhổ cỏ tận gốc, làm tổn thương tới A Hành ư?”
Xi Vưu làm thinh không nói.
Biết mình đã chạn tới điểm yếu của Xi Vưu, Vân Tang cũng chẳng nói thêm, chỉ vỗ vỗ lên mình hươu sao, hươu sao liền cõng nàng rời khỏi đó. Nghe tiếng ho khe khẽ vẳng lại, A Hành gọi với theo: “Vân Tang tỷ, tỷ nhớ… phải bảo trọng.”
Vân Tang ngoái lại cười nói: “Yên tâm, tỷ không sao, muội… cũng phải tự chăm sóc lấy mình.” Đôi bên đều rưng rưng nước mắt nhìn nhau, A Hành gật gật đầu cười, Vân Tang cũng cười rồi khuất bóng sau cánh rừng rậm rạp.
Xi Vưu bước tới bên A Hành hỏi nhỏ: “Cô dự định thế nào? Rời khỏi Thần Nông sơn định đi đâu đây?”
A Hành mỉm cười, “Mẹ không cho ta về Hiên Viên sơn nữa, nhân lúc thiên hạ thái bình, ta muốn đi rong chơi khắp nơi như khi xưa vậy.”
Nhớ lại chuyện xưa, khóe miệng Xi Vưu cũng thấp thoáng nụ cười, “Cô đáp ứng ta một chuyện được không?”
“Chuyện gì cơ?”
“Mỗi năm để ta gặp cô một lần.”
“Làm sao gặp được? Bệnh tình Viêm Đế càng nặng thêm, lệnh giới nghiêm của Thần Nông quốc sẽ càng lúc càng nghiêm ngặt, e rằng muốn ra vào cũng rất khó khăn.”
“Tháng Tư hàng năm, khi hoa đào nở đầy trên sườn núi là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc, mọi người đều tụ tập dưới gốc đào hát tình ca, tìm người thương. Từ sang năm trở đi, cứ đến tháng Tư, ta sẽ chờ cô dưới cội đào ở Cửu Lê, không gặp không về.”
Nhớ tới miền đào nguyên ngoài cõi thế tươi đẹp tự do Cửu Lê, A Hành chợt thấy ấm áp ngập lòng, từng cảnh tượng như hiện ra rõ rành rành trước mắt nàng, cuộc hẹn hò dưới trăng của Mê Đóa và Kim Đan, bát Ca tửu sóng sánh đậm đà, khúc tình ca nồng nàn phóng khoáng… Câu nói của Viêm Đế vẫn còn văng vẳng bên tai, nàng muốn như đôi én nhỏ chao liệng giữa núi rừng, ríu rít bên nhau tới bạc đầu hay muốn tháng lại năm qua một mình tựa bóng giữa cung điện nguy nga lộng lẫy đến hết đời giống mẹ?
A Hành nghĩ ngợi miên man hồi lâu không đáp.
“Tây Lăng Hành, cô không đồng ý ư?” Xi Vưu nắm chặt lấy nàng, nét mặt lạnh lùng chẳng giấu nổi vẻ thiết tha lo lắng thô bạo uy hiếp bùng lên trong mắt, A Hành không nhịn được phì cười, định mở miện toan nói nhưng lời vừa đến miệng, hai má đã đỏ bừng.
Nàng ngoảnh mặt đi, không dám nhìn Xi Vưu nhưng ngón tay lại khẽ ngoắc lấy tay hắn, nói nhỏ, “Nếu hàng năm ngươi đều mặc áo ta may thì năm nào ta cũng sẽ tới gặp ngươi.”
Nhận ra ý tứ trong lời nói của nàng, Xi Vưu đắm đuối ngắm A Hành đang ngượng đỏ cả tai, mừng rỡ hỏi lại: “Nếu ta mặc suốt đời, cô cũng sẽ đến suốt đời chứ?”
Mặt A Hành đỏ dừ như tôm luộc, nói khẽ đến cơ hồ không nghe thấy: “Nếu ngươi mặc thì ta sẽ tới.”
Xi Vưu cười phá lên ôm chặt lấy nàng, A Hành cúi đầu e thẹn làm thinh, chỉ nghe hoảng loạn và ngọt ngào hòa quyện vào nhau, tim đập thình thịch, cũng chẳng hiểu đó là tiếng tim mình hay tim đối phương nữa.
Qua một hồi lâu, A Hành mới lên tiếng: “Viêm Đế và Du Võng đang đợi ngươi, ta phải đi đây.”
Xi Vưu dặn dò Liệt Dương đang lượn vòng vòng quanh đó: “Ta giao cả A Hành và A Tệ cho mày đấy!”
Liệt Dương lần đầu tiên được giao phó trọng trách, mà kẻ nhờ cậy lại là người nó miễn cưỡng có thể xem trọng, nhưng nó vẫn tỏ vẻ trịnh trọng hiếm thấy, bay tới đậu lên vai A Hành, giơ một cánh tay vỗ vỗ ngực như thể nỏi: “Có ta đây rồi, không phải lo!”
A Hành cùng A Tệ phá lên cười lăn lộn, Liệt Dương thấy vậy bực bội bay đến đậu lên đầu A Tệ, hung hăng giáo huấn A Tệ.
A Tệ quyến luyến kêu một tiếng như từ biệt hươu sao rồi cất cánh bay lên, Xi Vưu vẫn nắm lấy tay A Hành không buông, nhưng A Hành đang từ từ bay lên cao, hắn đành phải lơi dần ra, đúng vào khoảnh khắc khi hai bàn tay sắp rời nhau, A Hành đột nhiên siết chặt tay hắn, dặn: “Ngươi là con nợ của ta, trên đời này chỉ mình ta mới có quyền lấy mạng ngươi, ngươi không được phép bị thương trong tay bọn Chúc Dung đâu đấy!”